Internet Computer là nền tảng điện toán đám mây mã nguồn mở được DFINITY Foundation xây dựng để giải quyết một số thách thức lớn mà internet truyền thống ngày nay gặp phải như bảo mật hệ thống kém, độc quyền dịch vụ internet và lạm dụng dữ liệu cá nhân của người dùng.
Internet Computer được thành lập để mang lại cho mạng internet hiện tại khả năng lưu trữ mọi quy mô ứng dụng, từ hợp đồng thông minh đơn giản và ứng dụng DeFi đến các nền tảng cho toàn ngành và hệ thống doanh nghiệp. Về mặt lý thuyết, hệ thống có khả năng lưu trữ “toàn bộ dữ liệu và logic phần mềm của nhân loại trong các hợp đồng thông minh”.
Dự án được thành lập và công bố lần đầu tiên vào năm 2015. Trong suốt năm 2018, dự án đã thực hiện một số vòng gọi vốn và huy động được tổng số tiền lên đến 195 triệu đô la. DFINITY Foundation là tổ chức hiện đang giám sát quá trình tăng trưởng và phát triển của Internet Computer. Ngoài trụ sở chính tại Zurich, DFINITY Foundation còn có các văn phòng tại Palo Alto, San Francisco, Tokyo cũng như các team làm việc từ xa trên toàn cầu.
Ngoài ra, cộng đồng nhà phát triển rộng lớn hiện là lực lượng khác đang thiết lập nền tảng. Họ sử dụng tài nguyên dành cho nhà phát triển của DFINITY để xây dựng và khởi chạy phần mềm của riêng họ trên Internet Computer.
Internet Computer hoạt động như thế nào?
Internet Computer được xây dựng trên giao thức phi tập trung mới Internet Computer Protocol (ICP). Hướng đi của dự án là kết hợp tổng sức mạnh tính toán của số lượng lớn node máy tính để tạo ra duy nhất một nền tảng máy tính thống nhất có khả năng hỗ trợ các ứng dụng ở mọi quy mô và độ phức tạp.
Với Internet Computer, các hợp đồng thông minh được tách biệt thành nhiều đơn vị code an toàn, gọi là “canister” (hộp). Canister là đơn vị tính toán hoạt động như một ứng dụng hoặc chức năng riêng lẻ. Người dùng cuối có thể tương tác với chúng thông qua một điểm vào và trải nghiệm người dùng sẽ giống như internet ngày nay.
Mặt khác, không giống như internet truyền thống, Internet Computer sẽ trực tiếp lưu trữ và phục vụ các ứng dụng, dữ liệu on-chain, thay vì dựa vào cơ sở hạ tầng tập trung. Tại lớp cơ sở của nó, một mạng các trung tâm dữ liệu có thể khởi chạy node vận hành giao thức ICP. Sau đó, các node này được sắp xếp vào nhiều mạng con sử dụng để lưu trữ canister phần mềm mà người dùng có thể tương tác như một phần của trải nghiệm web.
Tính đến tháng 3/2021, nền tảng này đã khởi chạy mainnet (mạng chính) bán công khai và các trung tâm dữ liệu. Nhà phát triển cũng bắt đầu làm việc trên đó. Khi vừa mới ra mắt vài ngày, token ICP đã nhanh chóng được niêm yết trên các sàn giao dịch hàng đầu thế giới như Coinbase, Binance, Huobi,… Ngoài ra, một số sản phẩm tương lai của ICP (được gọi là IOU) cũng được giao dịch trên nhiều nền tảng khác nhau, bao gồm cả MXC.
Gần đây, DFINITY Foundation đã tiết lộ roadmap 20 năm của dự án.
– Trong vòng 5 năm: Các trường học sẽ dạy về Internet Computer và Motoko (ngôn ngữ lập trình của nền tảng). Một số dịch vụ internet công cộng sẽ đạt được thành công đáng kể và hiểu biết rộng rãi về ICP.
– Trong vòng 10 năm: Internet Computer sẽ vượt qua hệ sinh thái internet độc quyền khép kín của các gã khổng lồ công nghệ. Tiền sẽ tiếp tục được chuyển hướng đến ICP từ nhiều công ty internet kế thừa và DeFi sẽ sánh ngang với công nghệ tài chính truyền thống.
– Trong vòng 20 năm: Dự án sẽ trở nên lớn mạnh so với internet khép kín ngày nay. Hầu hết cơ sở hạ tầng quan trọng của xã hội sẽ được lưu trữ trên đó và người dùng trên toàn thế giới hưởng lợi từ quyền riêng tư, tự do cá nhân được cải thiện đáng kể.
Điều gì làm cho Internet Computer trở nên độc đáo?
Không giống như những nền tảng cạnh tranh khác, người dùng cuối không phải trả tiền cho kết quả tính toán của hợp đồng thông minh (hoặc canister) trên Internet Computer. Những canister này được tính phí trước theo “cycle” (chu kỳ) và thanh toán thông qua mô hình “gas ngược”.
Điều này mang lại một số lợi ích. Thứ nhất, người dùng không cần sở hữu bất kỳ loại tiền điện tử nào để tương tác với nền tảng – loại bỏ một rào cản đáng kể đối với việc gia nhập. Người dùng thậm chí không cần biết rằng dịch vụ mà họ đang tương tác dựa trên các công nghệ phi tập trung, làm cho quá trình này trở thành một trải nghiệm liền mạch với những gì họ đã quen thuộc hiện nay.
Thay vào đó, các trung tâm dữ liệu nhận thù lao cho dịch vụ của họ dưới dạng token ICP. Một số token này được sử dụng để trả cho canister theo cycle. Giống như tài nguyên tính toán của Internet Computer, các cycle dần dần cạn kiệt theo quá trình sử dụng mỗi canister và phải được bổ sung thường xuyên.
Chi phí của mỗi cycle sẽ do hệ thống quản trị của mạng đặt ra và phải hướng tới một giá trị ổn định theo thời gian.
Hệ thống quản trị này được gọi là Network Nervous System (NNS) do DFINITY Foundation ra mắt lần đầu tiên vào tháng 9/2020. NNS chịu trách nhiệm “kiểm soát, cấu hình và quản lý” mạng. Để tham gia quản trị mạng, người dùng cần khóa token ICP trong một khoảng thời gian nhất định. Quá trình này tạo ra “Neuron” cho phép họ bỏ phiếu bình chọn đề xuất quản trị để giúp định hình mạng và kiếm được phần thưởng quản trị.
Internet Computer hoạt động với cơ chế đồng thuận 4 layer dựa trên PoS, bao gồm layer nhận dạng, layer báo hiệu ngẫu nhiên, layer blockchain và layer chứng thực. Phối hợp cùng với nhau, các layer này cho phép bảo mật có thể chứng minh và chống các vectơ tấn công đã biết (như tấn công mạo nhận Sybil và tấn công 51%) trong khi duy trì sự phi tập trung và đảm bảo mạng có thể mở rộng quy mô để hỗ trợ hàng triệu người tham gia.
Dự án Internet Computer có trong tay một trong những đội ngũ chuyên sâu nhất không gian tiền điện tử. Như DFINITY từng ca ngợi, dự án này đang được xây dựng bởi “team kỹ sư máy tính phân tán, nhà mật mã và các chuyên gia vận hành xuất sắc nhất trong ngành”.
Quá trình phát triển của Internet Computer được người sáng lập DFINITY, Dominic Williams dẫn dắt. Anh là một nhà khoa học và một doanh nhân giàu kinh nghiệm, người đã đi tiên phong trong mô hình đồng thuận chuyển tiếp ngưỡng của DFINITY và công nghệ chuỗi PSC.
So sánh Internet Computer với Ethereum
Không giống như Ethereum cung cấp nền tảng công nghệ cho các ứng dụng phi tập trung (DApp) chủ yếu liên quan đến việc di chuyển và sử dụng tài sản kỹ thuật số (như ETH và token ERC-20), Internet Computer có nhiệm vụ thay thế internet truyền thống bằng cách phân bổ danh tính đặc biệt cho trung tâm dữ liệu và sử dụng việc chuyển giao quyền quản trị của ICP cho người dùng cuối.
Ethereum tận dụng các hợp đồng thông minh để tự động thực thi thỏa thuận và hành động. Trong khi đó, Internet Computer sử dụng canister tương tự như hợp đồng thông minh, nhưng được xây dựng để có khả năng mở rộng cực cao.
Ngoài ra, hai nền tảng khác nhau đáng kể về tốc độ và hiệu quả. Trong khi Ethereum hiện đang phải chịu phí giao dịch tương đối cao và thời gian xác nhận giao dịch chậm (phần lớn là do tắc nghẽn), lưu lượng khổng lồ của Internet Computer đảm bảo nó có thể xử lý hoàn toàn giao dịch trong 5-10 giây, với khả năng mở rộng thực tế không giới hạn nhờ đổi mới ngưỡng chuyển tiếp.
Với những lợi thế về hiệu suất như vậy, rõ ràng Internet Computer vượt trội hơn trạng thái hiện tại của Ethereum. Tuy nhiên, khi Ethereum 2.0 hoàn tất triển khai, những khác biệt này có thể thay đổi đáng kể theo thời gian.
Nguồn: Tapchibitcoin.io