Tin nóng ⇢

Khả năng mở rộng, tính module và tương lai của Ethereum

Giống như việc các tòa trời trở nên phổ biến trong đời sống đô thị, công nghệ cũng đang dần là một phần không hể thiếu trong đời sống hiện đại ngày nay, dù là internet, tiền điện tử hay trí tuệ nhân tạo thì cũng không còn quá xa lạ với sự phát triển của xã hội 4.0. Bên cạnh đó, khi cấu trúc phát triển từ nguyên khối cho một mục đích duy nhất (nhà ở, kinh doanh đơn lẻ, sản xuất) cho đến cấu trúc thượng tầng module của cuộc cách mạng đô thị (nhiều doanh nghiệp trong một tòa nhà cao, mở rộng cuộc sống sang trọng trong chiều dọc), và đơn nhiên không thể không nhắc đến blockchain quý giá của chúng ta, Ethereum.

Lịch sử

Trong chu kỳ gần đây nhất của crypto, một loạt các “killer Ethereum” layer1 thay thế đã xuất hiện, thu hút hàng chục tỷ đô la đầu tư vào TVL, tạo ra hàng nghìn tweet từ các VC, khiến chúng được xem như một vị cứu tinh được gửi đến để cứu chúng ta khỏi những rủi ro của Ethereum. Trong thời gian này, token alt L1 đã tăng lên rất nhiều và hệ sinh thái đã phát triển mạnh mẽ, giúp cho người mới dùng tiền điện tử có thể giao dịch với giá cả phải chăng trong những môi trường này. Nhưng sau đó lại xảy ra nhiều thử thách hơn.

Nhìn vào DeFi TVL của các hệ sinh thái alt L1, những kẻ được gọi là killer Ethereum này đã đảm nhận vai trò theo chủ nghĩa hòa bình lại không làm gì cả. Trong khi L2 và các nhóm dựa trên dule vẫn tiếp tục phát triển nhanh chóng. Nhưng nói về mặt khác, các alt L1 vốn dĩ không tệ, đa số chúng có thiết kế sáng tạo và có thể thống trị thị trường tiền điện tử trong tương lai. Nhưng vấn đề là chúng không đủ hấp dẫn để thu hút người dùng Ethereum và thị phần thống trị của Ethereum trong DeFi TVL.

Hãy nhìn vào các alt L1 này, họ đang tiến hành một cuộc chiến văn hóa cho bộ trình xác thực tập trung của họ. Và Ethereum có hơn 420.000 trình xác thực, cung cấp năng lượng cho một cuộc thử nghiệm tuyệt vời nhất trong các hệ thống phân tán từng được tạo ra. Các alt L1 khác hoàn toàn không đạt được quy mô này, ngay cả Solana cũng chỉ ở vị trí thứ hai với 3400 trình xác thực.

Nghe có vẻ không phải là một vấn đề lớn, nhưng một trong những nguyên lý cốt lõi của tiền điện tử là phân quyền, đó là lý do tại sao Ethereum tập trung vào bảo mật và phân quyền hoặc bất kỳ ai tự nhận mình là vua hiện tại của blockchain đều đang rất cần thiết kế này.

Ngoài bộ xác thực alt L1, một lý do khác khiến chúng thất bại cũng khá rõ ràng nhưng lại quá muộn để nhận thức ra đó là việc máy in tiền của đồng tiền này đã ngừng hoạt động. Trong thị trường tăng giá (đầu năm 2020 đến đầu năm 2022), bất kỳ nhà đầu tư hoặc nhà giao dịch tiền điện tử thiếu kinh nghiệm nào cũng có thể ném tiền vào một đồng tiền điện tử và đảm bảo thu được ít nhất 5 lần trong một khung thời gian hợp lý. Điều này thúc đẩy sự cuồng loạn, lạc quan tột độ và chết người nhất là lòng tham. Không dám nói đây là những đợt bơm tăng không công bằng cho alt L1 và các token hệ sinh thái của nó, nhưng chúng giống như một nghĩa địa của một thời đại đã qua. Nếu bạn đang tự hỏi việc triển khai alt L1 sẽ rơi như thế nào trong môi trường tiền điện tử hiện tại, chỉ cần xem biểu đồ APT ( Aptos ).

Mặc dù tính bằng mức giảm tiền gửi token gốc, thay vì biểu đồ 85% giá token tính theo USD, nhưng mức giảm TVL đối với các L1 thay thế này là rất lớn. Nhìn sâu hơn vào các hệ sinh thái alt L1 này, 10 giao thức hàng đầu thường là sự kết hợp của 1 hoặc 2 ứng dụng gốc thành công, chẳng hạn như triển khai cross-chain loại Uniswap / Aave (bắt đầu từ Ethereum) hoặc một số ứng dụng “backdoor”, không hiểu vì sao nhưng điều này lại hấp dẫn một số lượng lớn người dùng TVL. Khoảng 90% các nhà phát triển sẽ tích cực phát triển trên Layer 2 hoặc Ethereum kể từ bây giờ. Về lý do tại sao, hãy xem Arbitrum và Optimism đã hoạt động như thế nào so với “killer Ethereum” trong những tháng gần đây.

Những L2 này thậm chí còn xây dựng cộng đồng người dùng đam mê, đó là một trong những lý do cốt lõi khiến các alt L1 không hoạt động tốt như vậy. Không có người yêu thích nửa, Gospel sẽ không thể thực hiện được. Đây không phải là ví dụ tuyệt vời nhất hoặc có thể định lượng được sự thống trị ngày càng tăng của L2, nhưng nó hoàn toàn trái ngược với những gì alt L1 từng làm.

Tất nhiên, điều đó không có nghĩa là alt L1 không có những thành công khác, bằng chứng thể hiện ở giai đoạn phát triển kinh doanh tiếp theo và quan hệ đối tác nghiêm túc giữa Polygon và Solana. Phần tiếp theo sẽ nói thêm về Polygon, đặc biệt tập trung vào zkEVM của nó và cách cạnh tranh với vô số zkEVM khác.

Sau loạt bình luận về lịch sử thì giờ sẽ chú trọng vào vị thế tương lai hơn. Hiện tại, Ethereum đã hoàn thành việc hợp nhất PoS được nhiều người mong đợi, với một loạt các nâng cấp được lên kế hoạch (The Surge, Verge, Purge và Splurge) trong vài năm tới. Hình ảnh dưới đây là một biểu đồ thông tin về những nâng cấp ( liên kết tweet của Vitalik ).

Phần tiếp theo của bài viết sẽ đề cập tới những thuật ngữ này, đặc biệt là sharding và EIP-4844, một bước tiến nhỏ đối với sự kết thúc của Ethereum. Nhìn vào biểu đồ tiếp theo, Ethereum được hợp nhất là L1 duy nhất có thể tạo ra tỷ suất lợi nhuận dương và thậm chí không có đối thủ cạnh tranh (ngoại trừ Binance Smart Chain).

Tích cực hơn, những phát triển xung quanh zkEVM như giải pháp module, phần mềm trung gian và thậm chí cả L3 đã khiến Twitter gây bão trong tháng qua. Chắc chắn rằng Ethereum sẽ nổi lên như một L1 ưu việt có thể sở hữu được thị phần lớn của DAU và TVL trong mọi ứng dụng tiền điện tử. Điều này đã thể hiện khá rõ nhưng vẫn chưa có gì quyết định được vì mục đích của bài báo này là giải thích lý do tại sao lại có dự đoán và cách thức hoạt động của những công nghệ đầy hứa hẹn này cũng như ý nghĩa của nó đối với người dùng tiền điện tử trung bình trong những năm tới.

Nghiên cứu kỹ thuật

Giả sử bạn là một người dùng tiền điện tử dày dạn dành thời gian lướt Twitter tiền điện tử. Bạn theo dõi Inversebrah, Cobie và Hentaiavenger66 và tự cho mình là người khá giỏi trong việc điều hướng những thử thách và khó khăn đến với thị trường tiền điện tử non trẻ. Có thể bạn đã kiếm được nhiều tiền trong thị trường tăng giá và sống một cuộc sống thoải mái nhưng vẫn cảm thấy chưa đủ. Trong một thị trường tăng giá, bạn không cần phải biết nhiều để thành công. Giữa GM tràn ngập màn hình, số tiền bạn nhận được chỉ bằng một lần bấm nút. Và ngày nay thì bạn không có nhiều việc để làm trên Twitter.

Có thể bạn đang làm việc trên một DAO hoặc một giao thức mới sắp ra mắt, cố gắng thu hút người dùng mới từ Twitter, những người chỉ muốn lấy lại doanh thu đã mất của họ. Có thể bạn đã thử nghiên cứu một cái gì đó giống như MEV, chỉ để thấy rằng bạn không thông minh như thị trường khiến bạn nghĩ. Bạn có thể đã hiểu rõ về một bản tổng hợp optimistic hoặc ZK là gì và tại sao chúng lại cần thiết. Có thể bạn đã có một OP sinh lợi và chuyển các token quản trị của mình cho những người ngay thẳng hơn trên blockchain. Nhưng dù sao đi nữa, bạn cũng đang dần nhận ra rằng mình không có cái gọi là lợi thế.

Mọi người tiếp tục tweet về zkEVM và lý do tại sao chúng là tương lai, bạn gật đầu đồng ý với tất cả các tweet của họ. Trong tâm trí của bạn, hẳn bạn đang tự hỏi bản thân tại sao zkEVM cần phải tồn tại ngay từ đầu và tại sao nên có nhiều hơn hai sản phẩm như vậy. Bạn có thể đang nghĩ tại sao lại có zkEVM nếu đã ra mắt Optimistic và nó đang hoạt động tốt, trong khi Ethereum thậm chí không có cơ hội được áp dụng hàng loạt trong 5 năm nữa nên không rõ tại sao các nhà phát triển lại nghĩ như vậy.

Có thể bạn thấy mọi người đang tweet về những khái niệm không có ý nghĩa logic nào. Bạn tự hỏi mình: “Tính khả dụng của dữ liệu là cái quái gì? Tại sao chúng ta lại đột nhiên lo lắng về điều này, không phải vấn đề với TPS thấp của Ethereum sao? Xử lý L2 thực thi và giải quyết vấn đề này, tại sao chúng ta phải lo lắng về điều này không phải là vấn đề gì cả? Nếu L2 tốt như vậy, tại sao chúng ta vẫn cần một lớp module? Nếu Ethereum có những kế hoạch khổng lồ này cho sharding, thì có ích gì nếu như Celestia sẽ lỗi thời trong một vài năm nữa?

Thực ra, theo vài ý kiến cá nhân thì trạng thái của Twitter không lý tưởng cho những người có thời gian và sự kiên nhẫn kém, hay những người cần tìm hiểu kỹ các podcast, các bài báo trên phương tiện truyền thông, tài liệu và hàng trăm chủ đề Twitter để có câu trả lời cho những câu hỏi này. Không phải rằng không thể hiểu tất cả mọi thứ, nhưng không có nhiều tài nguyên để tập hợp tất cả thông tin này lại thành một bài thuyết trình dễ hiểu. Dưới đây sẽ là bài viết tập trung vào giải thích và ý kiến cá nhân hơn, có thể nó không đúng hoàn toàn hoặc có lổ hỏng nhưng mong rằng sẽ mang lại phần nào đó kiến thức cho người đọc.

ZK Rollups và zkEVMs

EVM là một môi trường toàn diện cung cấp năng lượng cho máy móc và thực hiện các giao dịch. zkEVM thì sử dụng ZK-SNARKS để tạo các bằng chứng xác thực các giao dịch Ethereum, với mục tiêu cho phép tổng hợp zero-knowledge (ZKR) để xử lý việc thực thi. Để sử dụng một phép loại, một Zero-knowledge proof là một cuộc trao đổi giữa hai bên (người lập ngôn và người xác minh), trong đó thông tin phải được chứng minh mà không bị rò rỉ.

Zero-knowledge proof vượt trội hơn fraud proof được sử dụng bởi Optimistic rollups (OR) vì chúng nhỏ hơn (ít mạnh hơn) và hiệu quả hơn. Fraud proof yêu cầu “người quan sát” chú ý đến hành vi độc hại, trong khi các Zero-knowledge proof chỉ dựa vào toán học và mật mã ma thuật.

Sự phát triển của zkEVM ít liên quan đến khả năng tương thích EVM mà liên quan nhiều hơn đến công cụ độc đáo của Ethereum. Một số trong số này bao gồm Solidity (ngôn ngữ lập trình) và các tiêu chuẩn token của Ethereum (ERC20 và ERC721). Connolly cho biết Polygon là một ví dụ về việc tận dụng các công cụ của Ethereum, trong khi những thứ như Solana hoặc Near sẽ cần được phát triển từ đầu.

EVM là môi trường runtime được sử dụng rộng rãi nhất, vậy tại sao lại phát minh lại flywheel? Optimism là một ví dụ điển hình, vì họ đã và đang phát triển môi trường runtime của riêng mình như là Optimism Virtual Machine (OVM) nhưng lại gặp sự cố khi tạo trình dịch từ OVM sang EVM.

Trong bài đăng trên Mirror, Optimism đã viết: “Chúng tôi đã học được rất nhiều điều về khả năng mở rộng liên quan đến trải nghiệm của nhà phát triển, bằng cách ra khỏi rừng và để Ethereum làm việc của nó.” nó cũng đã công bố bản nâng cấp trong tương lai để cung cấp Fraud Proof Cannon tương đương EVM.

Quay trở lại với zkEVM, tại thời điểm này, có bốn loại zkEVM, như được Vitalik mô tả trong bài viết xuất sắc này .

Điều này bao gồm Ethereum-Equivalent, EVM-Equivalent, EVM-Compatible và Solidity Compatible, nhưng sự khác biệt giữa những thứ này và sự đánh đổi là gì? Bắt đầu với các Ethereum-Equivalent zkEVM, chúng giống với Ethereum về mọi mặt (được gọi là zkEVM Loại 1). Chúng chưa hoàn toàn hoạt động vì các nhóm vẫn đang làm việc để thu hẹp khoảng cách giữa zkEVM Loại 3 và Loại 2, nhưng tuy nhiên, về lý thuyết, các zkEVM Loại 1 khá tuyệt vời và có thể được triển khai vào một ngày nào đó. Nhược điểm duy nhất của loại zkEVM đầu tiên là mất nhiều thời gian để tạo ra các block.

EVM-Equivalent zkEVM (Loại 2) là sự hỗ trợ thầnh thánh của sự phát triển zkEVM. Loại zkEVM thứ hai có thể chạy nhanh hơn loại zkEVM đầu tiên bằng cách trừu tượng hóa các quy trình trong Ethereum không cần thiết cho mục đích của nó. Scroll là một ví dụ về lớp thứ hai của zkEVM, vì nó tuân theo cách tiếp cận Ethereum 1: 1 với sự khác biệt duy nhất là môi trường runtime (zkEVM v. EVM). Vì vậy, làm thế nào để Scroll thực hiện điều này?

Scroll bao gồm ba phần riêng biệt: Scroll node, Roller network, và hợp đồng Rollup/Bridge. Như đã đề cập, Scroll khác với Ethereum ở cách xử lý mã hoạt động (hướng dẫn thực hiện các hoạt động khác nhau thông qua mã). Để vượt qua bức tường gạch này, Scroll đang ” xây dựng các mạch ứng dụng cụ thể (” ASIC “) cho các DApp khác nhau” để giao tiếp với môi trường runtime zkEVM của chúng. Đó là một nhiệm vụ khó khăn, nhưng tôi chắc chắn rằng họ có thể hoàn thành nó.

Một zkEVM lớp thứ hai khác đang được phát triển bởi Polygon, công ty gần đây đã thông báo về việc ra mắt testnet. Mặc dù có kiến ​​trúc tương tự như Scroll, Polygon zkEVM thêm một bước bổ sung là gửi mã opc EVM thông qua zkProver của họ, ở đó nêu rõ: ” Các mã byte EVM được thông dịch bằng cách sử dụng hợp ngữ zero-knowledge mới (hoặc zkASM) .”

Scroll không yêu cầu thêm một lớp khi xử lý mã hoạt động EVM, trong khi Polygon zkEVM phải thêm một bước bổ sung để làm cho nó đơn giản hơn một chút, nhưng có thể thiếu một chút khả năng tương thích trong quá trình này. Cả hai đội đều làm việc chăm chỉ và thật tò mò chúng sẽ hoạt động như thế nào sau khi ra mắt đầy đủ.

Loại zkEVM thứ hai và thứ ba (EVM-Equivalent và EVM-Compatible) hiện được xác định khá mơ hồ, chủ yếu là do những người khác nhau tranh luận về việc phân loại các zkEVM Scroll và Polygon. Vì vậy, tôi sẽ chuyển thẳng đến zkSync và Starkware, hai ví dụ về zkEVM tương thích với Solidity (layer 4) hiệu suất cao.

Lớp thứ tư của zkEVM có cấu trúc khá khác với Ethereum, mang lại hiệu suất cao nhất với chi phí tương thích. Như bạn có thể biết, zkSync đang chuẩn bị cho ra mắt alpha đầy đủ (có lẽ là một token) và mạng chính Starknet đã hoạt động với giới hạn tiền gửi ETH (một chút alpha nhỏ).

Mặc dù Starknet không hỗ trợ Solidity (hiện tại), họ đã có thể khắc phục điều này với sự trợ giúp của Nethermind Transpiler. Mã solidity được chuyển sang Cairo, một ngôn ngữ lập trình do StarkWare tạo ra , và mã được chuyển sau đó được chạy qua Cairo zkEVM. Solidity là ngôn ngữ phát triển hợp đồng thông minh phổ biến nhất, cho phép Starknet tiếp cận các nhà phát triển tích hợp trơn tru hơn và cải thiện hiệu suất cụ thể của layer4 zkEVM .

Một trong những vấn đề với Starknet được Alex Connolly đề cập là hầu hết các chương trình hiện có đều được viết bằng Cairo, và đây có thể là mối lo ngại cho các nhà phát triển tương lai viết bằng Solidity. Mặc dù đây là một vấn đề vốn dĩ phải có, nhưng nó đáng được lưu ý và theo dõi.

Nhìn lại zkSync, quy trình của họ khá giống với Starknet với một vài điểm khác biệt chính. Giống như Starknet, zkSync dịch Solidity thành Yul, sau đó được gửi đến trình biên dịch LLVM của họ và cuối cùng vào máy ảo tùy chỉnh của họ, SyncVM hoặc ZincVM. Dù bằng cách nào, các quy trình này cũng không tương thích với tỷ lệ 1: 1 trong Ethereum, nhưng trong thế giới 0 và 1 này, tốc độ là chìa khóa.

Một yếu tố chung cho layer4 của zkEVM là “zkization” EVM của chúng. Với zkSync và Starknet, họ không nhấn mạnh đến quá trình phức tạp của việc tinh chỉnh EVM để làm cho nó hoạt động với các zero-knowledge proof. Bằng cách tạo ra zkEVM của riêng mình, họ có thể đánh đổi mồ hôi và nước mắt của sự phức tạp kỹ thuật để có hiệu suất nhanh hơn và nhiều công việc hơn trong việc phát triển cách giải quyết của riêng họ.

Mặc dù thời gian sẽ cho biết loại zkEVM nào sẽ nổi bật, nhưng hiệu suất của các OR kỹ thuật ít hơn cung cấp một chỉ báo khá mạnh rằng ZKR sẽ tự hoạt động tốt. Tất cả những gì bạn phải làm bây giờ là chờ đợi.

Validiums và Volitions

Validium về cơ bản là một ZKR với một điểm khác biệt chính là tính khả dụng của dữ liệu được xử lý off-chain thay vì on-chain. Nhưng tại sao Validium lại cần thiết và chúng kết hợp với L2 như thế nào? Để bắt đầu, đây là biểu đồ của Starkware phác thảo tương lai tiềm năng của Starknet.

Như bạn có thể thấy, Starknet (ZKR) được kết nối như một node L2 với một node L3, trong đó StarkEx là một ví dụ về hợp lệ, với tư cách là một node L3, nó có thể tạo ra các bằng chứng STARK off-chain ( TPS được đề xuất trong khoảng 12.000-500.000 tùy loại) và được gửi đến Starknet để xác minh. Validium là một bản tổng hợp dành riêng cho ứng dụng, bạn có thể nhận ra nếu bạn quen thuộc với Immutable X hoặc dYdX. Điều này thật tuyệt khi validium có thể cung cấp một xác minh duy nhất, giúp giao dịch rẻ hơn, nhanh hơn và cải thiện đáng kể TPS của ZKR tiêu chuẩn. Đây là một trong những bức ảnh nêu bật tiềm năng của L3.

Như bạn có thể thấy, ZKR nhanh hơn 4 lần so với OR và ‘zkPorter’ như zkSync được đề xuất thậm chí có thể nhanh hơn ZKR 10 lần. zkPorter cũng là một biến thể, một L3 do Matter Labs đề xuất cho zkSync, cũng hoạt động giống như StarkEx thông qua hành vi off-chain của nó. Nhược điểm duy nhất của L3 là tính bảo mật giảm mà chúng cung cấp và thiếu tính thanh khoản được chia sẻ, nhưng dù gì chúng vẫn an toàn hơn ALT L1.

L2 của Ethereum chia sẻ bảo mật với mainnet Ethereum, nhưng L3 hơi tách biệt (hoặc về mặt hình ảnh quá xa) so với L1 này. Bởi vì những khoản tiền này trong validium được giữ off-chain và tính khả dụng của dữ liệu được trích từ ZKR, tiền của người dùng về cơ bản là theo quyết định của những người hoạt động với tư cách là nhà khai thác. Trong bài đăng, Matter Labs tuyên bố: “Tính khả dụng của dữ liệu cho các tài khoản zkPorter sẽ được đảm bảo bởi những người nắm giữ token zkSync, được gọi là người giám hộ”, trong khi Alex Gluchowski cho biết “StarkEx được giảm thiểu nhờ sự ra đời của Data Availability Council (DAC).”

Từ hai cơ chế này, bạn có thể suy ra rằng bộ tám được cấp phép (StarkEx) và cơ chế chặt chém đối với các nhà khai thác không trung thực (zkPorter) làm tăng sự tin tưởng giả định rằng người dùng đang lựa chọn giữa thông lượng cao hơn và thấp hơn. Chi phí giao dịch phải được tính đến khi xem xét sự sẵn có của thông tin.

Rất khó để đưa ra ý kiến ​​cụ thể về bất cứ điều gì liên quan đến ZKR, chủ yếu là vì mọi thứ thay đổi rất thường xuyên, để theo kịp và đọc qua tất cả mọi thứ là rất khó.

Về cơ bản, Volition là một giải pháp kết hợp giữa các ZKR và thời hạn hiệu lực tương ứng của chúng, cho phép người dùng chọn phương thức truy cập ưa thích của họ. Volition rất hay vì các ứng dụng không còn phải lựa chọn giữa 1/ bảo mật ZKR tăng lên hoặc 2/ khả năng tùy chỉnh cao hơn và thông lượng hợp lệ cao hơn.

Một ví dụ cụ thể về Volition là Adamantium được đề xuất, một giải pháp DA ngoài chuỗi do StarkWare đề xuất, nơi người dùng có thể chọn để quản lý dữ liệu sẵn có của họ. Nó sẽ đắt hơn một chút so với giải pháp thay thế cho phép DAC của StarkEx xử lý dữ liệu sẵn có, nhưng nó có ý nghĩa đối với những người dùng muốn tăng cường bảo mật cho quỹ của họ. Dưới đây là hình ảnh giải thích về Adamantium chuyên sâu hơn.

Trong vài năm tới, hy vọng zkSync và Starknet sẽ hấp thụ thị phần của OR và tiếp tục chiến đấu cho vị trí số 1 cho đến khi một trong số họ cuối cùng giành chiến thắng. Điều này có thể được thực hiện thông qua tiếp thị tốt hơn, tiến bộ công nghệ tốt hơn hoặc một cái gì đó, nhưng thật khó để nói cái nào sẽ thành công.

Lớp module

Celestia và Fuel là hai lớp module sẽ được nói tới trong bài viết này. Định nghĩa một lớp mô-đun Fuel là “một hệ thống máy tính có thể kiểm chứng được thiết kế cho một ngăn xếp blockchain mô-đun”. Nhiên liệu ban đầu được phát triển dưới dạng rollup trước khi chuyển sang lớp thực thi mô-đun đầu tiên.

Hãy nhớ cách alt L1 trở nên phổ biến khi Ethereum bắt đầu tắc nghẽn hơn và chi phí giao dịch tăng lên, L2 chính là thứ đã tạm thời giải quyết vấn đề này. Tại thời điểm hợp nhất, Ethereum hiện đang ở trong tình trạng khá tốt. Chúng ta đang ở giữa (hoặc mới bắt đầu) của thị trường giá giảm, hầu hết các giao dịch trên mainnet đều tương đối phải chăng và các OR đang nhận được một số sự chú ý xứng đáng. Vậy vấn đề nằm ở đâu?

Với Eigenlayer, Ethereum có thể tăng băng thông của nó lên từ 200 đến 15 mb/s, đây là một mức tăng rất lớn. Chủ đề về tính khả dụng của dữ liệu rất quan trọng bởi vì các bản nâng cấp theo kế hoạch như EIP-4844 sẽ thực hiện các bước để đạt được một blockchain Ethereum hoàn chỉnh, khái niệm về nó được định nghĩa là “Proto-Danksharding”. Trong khi còn lâu nữa sharding mới được triển khai trực tiếp trong Ethereum, thì Proto-Danksharding đã bổ sung một yếu tố cơ bản mới của giao dịch, đó là “blob-carrying giao dịch”. Trích dẫn rằng L2 ngày càng có nhiều khả năng là tương lai của Ethereum, bài đăng thảo luận rằng thay vì thêm không gian cho các giao dịch, việc thêm không gian cho dữ liệu sẽ có ý nghĩa hơn.

Celestia, một lớp đồng thuận và khả dụng dữ liệu mô-đun, gần đây đã thông báo rằng họ đã huy động được 55 triệu đô la từ các nhà đầu tư nổi tiếng như Polychain Capital và Bain Capital, đây là một vòng khá lớn trong thị trường giá giảm. Bằng cách sử dụng một khái niệm được gọi là “Data Availability Sampling”, Celestia có thể cung cấp các non-sharded blockchain với sức mạnh của sharding thông qua Proof of Data Availability.

Celestia sẽ cho phép các L1 hoặc L2 kết nối với hệ thống lấy mẫu DA này và giảm bớt nhiệm vụ quản lý DA, làm cho các đợt tổng hợp và chuỗi L1 hiệu quả hơn và chuẩn bị tốt hơn để mở rộng quy mô khi số lượng người dùng tiền điện tử tăng lên.

Như bạn có thể thấy, lớp DA là một khái niệm giống như L2, hoạt động như một lớp thực thi giúp phá vỡ Ethereum khỏi chuỗi nguyên khối của nó và trở nên mô-đun hơn. Celestia nổi bật vì nó được xây dựng với Cosmos SDK, giúp nó tương thích với các blockchain dành riêng cho ứng dụng. Rất có thể trong tương lai, Celestia sẽ được tích hợp theo chiều ngang với tất cả các blockchain đang hoạt động, tạo ra doanh thu đáng kể từ các giao dịch trên mỗi chain. Điều này nghe hẳn rất tuyệt.

Fuel có thể cải thiện việc thực hiện rollup bằng cách tách tính toán và xác minh. Thông thường, trình xác thực tự xử lý cả hai quy trình chính là áp dụng điều chỉnh trạng thái và xác thực điều chỉnh trạng thái vì nó làm chậm mọi thứ trong khi Fuel muốn tăng tốc mọi thứ.

Việc thêm một lớp thực thi mô-đun không phải là một cuộc tấn công vào những tiến bộ công nghệ của L2 mà đó là một hiệu suất tích cực.

Nếu L2 tệ, không ai quan tâm đến việc phát triển phần mềm để làm cho chúng hoạt động tốt hơn. Sự phát triển là phát hành Fuel đã chứng minh rằng L2 có tiềm năng đánh bại L1 thay thế và trở thành môi trường cho Ethereum mô-đun. Fuel bao gồm ba phần làm cho nó nổi bật: Fuel VM, ngôn ngữ lập trình Sway và xử lý giao dịch song song. Nếu bạn quan sát kỹ Aptos, bạn có thể nhận ra thuật ngữ cuối cùng vì chúng áp dụng một cơ chế rất giống nhau, tăng thông lượng và tăng hiệu quả.

Bên cạnh đó, mô hình tiền tệ của Fuel cũng khá giống với Celestia.

L1, L2, sidechains và mọi thứ ở giữa có thể kết nối với Fuel framework, cải thiện hiệu suất và trả lại một phần doanh thu phí cho Fuel như một lời cảm ơn. Fuel có thể đạt được sự cải thiện này trong việc thực thi bằng cách trừu tượng hóa “các chức năng thực thi sử dụng nhiều tài nguyên cho các nhà sản xuất khối mạnh mẽ”. Như đã đề cập trước đó, đây là sự tách biệt quan trọng giữa tính toán và xác minh. Fuel sử dụng các fraud/validity proof để tránh hành vi độc hại, đây là cơ chế chặt chém nổi tiếng và hy vọng bạn đã hiểu với nó.

Nói chung, các lớp mô-đun như Celestia và Fuel hoạt động để cải thiện chức năng của các blockchain nguyên khối và thúc đẩy chúng hướng tới một tương lai mô-đun đầy đủ. Thậm chí tốt hơn, các giao thức này có thể có token và được airdrop cho người dùng testnet. Tuy nhiên, đây chỉ là phỏng đoán.

Phần mềm trung gian

Nói về phần mềm trung gian, Eigenlayer sở hữu một giao thức đặc biệt.

Eigenlayer giới thiệu một khái niệm được gọi là “restaking”, về cơ bản làm tăng hiệu quả vốn của việc đặt cược ETH (chẳng hạn như stETH hoặc rETH) bằng cách cho phép người dùng gửi các ETH đã đặt cọc này vào hợp đồng Eigenlayer. Eigenlayer có thể sử dụng ETH đã đặt cọc để hỗ trợ về cơ bản cho bất cứ thứ gì, có thể là oracles, sidechains hoặc cross-chain bridge.

Mặc dù việc khởi động lại ETH nghe có vẻ không đáng tin cậy, nhưng sự thật không hoàn toàn như vậy. ETH bạn đặt cược xác nhận Ethereum, giúp bạn kiếm được tiền trong quá trình này. Trong khi ETH đặt cọc xác nhận Ethereum, bạn có thể thoải mái sử dụng nó ở bất cứ đâu! Nó có tính thanh khoản cao và về cơ bản mọi ứng dụng đều hỗ trợ các dẫn xuất thế chấp thanh khoản của ETH vì nó đã ăn sâu vào tiền điện tử tại thời điểm này. Nếu bạn còn hoài nghi, hãy xem TVL của Lido .

Tóm lại, ETH được đặt lại vào hợp đồng Eigenlayer có thể được sử dụng để đảm bảo hoặc xác minh (không chắc chắn về thuật ngữ chính xác) những gì bạn muốn. Eigenlayer thậm chí đã phát triển giải pháp DA của riêng họ (EigenDA), giải pháp này có thể trở thành sản phẩm phổ biến nhất mà họ cung cấp. Cosmos đang triển khai cái gọi là bảo mật chia sẻ, một bản nâng cấp giao thức giúp Cosmos Lisk bảo mật mạng của họ mà không phải chịu phí cao. Trong một thời gian dài (cho đến tận ngày nay), ATOM đã ít khi được sử dụng. Nhưng khi bảo mật được chia sẻ hoạt động, ATOM có thể được sử dụng để xác minh Lisk trong hệ sinh thái IBC ngày càng mở rộng.

Thông qua sức mạnh của Eigenlayer, chúng ta có thể tăng tốc các sidechains hoặc L1 mới, tất cả đều có thêm lợi ích của bảo mật được chia sẻ không giống như cách Ethereum hoạt động.

30 chưa phải là tết

Tương lai của Ethereum và tiềm năng mở khóa mô-đun vẫn còn rất lạc quan sau này. Các L1 khác có thể tốt hơn trong các nhiệm vụ cụ thể (NFT, GameFi ), nhưng Ethereum sẽ giành chiến thắng vì khả năng phát triển liên tục của nó.

Hiện tại, hầu hết các hoạt động blockchain đều tập trung vào Ethereum và không có đủ bằng chứng để đề xuất bất kỳ điều gì khác ngoài sự tăng trưởng. Bằng cách giảm chi phí giao dịch của L2 và phần thưởng bổ sung của bảo mật Ethereum, Defi sẽ làm cho nó dễ tiếp cận hơn, điều này sẽ chỉ làm tăng số lượng người dùng rời khỏi các ngân hàng, bất kể họ sống ở đâu.

Cuối cùng, cảm ơn bạn đã kiên nhẫn đọc.

Có thể bạn quan tâm

Mục lục