Tin nóng ⇢

Kỷ nguyên Equivalent EVM sẽ mở ra giai đoạn phát triển tiếp theo của Ethereum

Mô hình về Equivalent EVM sẽ mở khóa giai đoạn tăng trưởng tiếp theo của Ethereum.

DeFi Summer 2020 đã đạt đến giới hạn về quy mô của Ethereum. Kể từ đó, hiệu ứng mạng của EVM đã bị phá vỡ thành nhiều hướng khác nhau. Các L1 mới và thậm chí nhiều L2 không tuân theo tiêu chuẩn EVM nữa.

Tuy nhiên, kỷ nguyên của Equivalent EVM và một sự bùng nổ Cambri đang đến gần. Đến thời điểm đó, chúng ta chỉ cần Equivalent EVM để mở ra giai đoạn phát triển tiếp theo cho Ethereum.

Equivalent EVM là gì?

Thiết kế Equivalent EVM thực chất là tạo ra một bản optimistic rollup dựa trên "minimal dif" của Ethereum. 

Equivalent EVM mở rộng các thuộc tính của Ethereum thành các Layer2 của nó, đẩy nhanh tiến độ chuyển từ Ethereum sang L2 rollups

Optimistic Rollup không chỉ chia sẻ bảo mật của Ethereum mà còn chia sẻ mọi khía cạnh của hiệu ứng mạng lưới. Trong khi những ứng dụng L2 khác không có đặc quyền truy cập tất cả các hiệu ứng mạng của Ethereum. 

Khả năng tương thích EVM không còn linh hoạt nữa. Cả việc tối ưu hóa hay khả năng khái quát hóa (generalizability) bằng cách tuân thủ tiêu chuẩn Ethereum hay xây dựng một thứ gì đó hoàn toàn khác được tối ưu hóa cao cho từng trường hợp.

Để mở rộng toàn bộ sức mạnh của Ethereum lên L2, cần nhiều hơn là khả năng tương thích EVM đơn thuần mà đó là Equivalent EVM.

Tương thích và tương đương

Khi đội ngũ Optimism giới thiệu tính năng Equivalence EVM vào năm ngoái, họ đã đề cập đến sự khác biệt kỹ thuật giữa Equivalence (tương thích) và Compatibility (tương đương).

Rollups được gọi là cứu tinh mở rộng quy mô vì giúp kết nối với Uniswap. Những lần rollup đầu tiên đã được thực hiện bằng cách tạo lại hoàn toàn Uniswap, với code ở trên cùng của rollup được xây dựng tùy chỉnh. Đây rõ ràng không phải là một giải pháp đủ tốt.

Hiệu ứng mạng lưới của EVM vượt xa Solidity. Một loạt các công cụ hỗ trợ mang lại sự tiện lợi cho các nhà phát triển Ethereum. Bởi vì các công cụ này cũng chạy trên tiêu chuẩn EVM, chúng đã phá vỡ rollup được xây dựng tùy chỉnh. Với equivalence EVM, có thể tạo lại một ứng dụng hiện có chỉ bằng thao tác đơn giản copy + paste. 

EVM cũng giống như một thành phố

Mã nguồn mở giống như một thành phố. Nó được tạo ra từ sự đóng góp của nhiều nhà phát triển. Theo thời gian, thành phố trở nên tối ưu hóa, mạnh mẽ và hiệu quả hơn. Nói một cách đơn giản, chuỗi EVM giống như tái hiện Paris ở Las Vegas, một mảnh đất khác tái hiện sự thịnh vượng hiện có.

Phần mềm nguồn mở là public-good được duy trì và nâng cấp bởi các cộng đồng tương ứng.

Các nhà phát triển khi sử dụng phần mềm nguồn mở đã gặp phải các vấn đề trong quá trình sử dụng và dành thời gian để khắc phục chúng, sau đó vận động cộng đồng chấp nhận nghiên cứu của họ. Nếu cộng đồng cho rằng nó có giá trị, thì những đóng góp của họ sẽ được hợp nhất. Một tiêu chuẩn mới được tạo ra, tiện ích và tính mạnh mẽ của phần mềm sẽ tăng lên tương ứng.

Giống như một thành phố đang phát triển, các nhà xây dựng đến để sản xuất những gì cộng đồng xung quanh cần và coi trọng. Các tài nguyên và tiện ích dùng chung được tạo ra. Đây là con đường một chiều để tăng trưởng giá trị miễn là tất cả mọi người cùng làm việc.

Mỗi nhà phát triển xây dựng theo hướng riêng của họ và khám phá ra sự đóng góp cụ thể cho tập thể. Theo thời gian, sự đóng góp tổng hợp của hàng nghìn nhà phát triển sẽ hình thành nên public-good rất mạnh mẽ.

Geth

Geth là một ví dụ tuyệt vời về một ứng dụng mạnh mẽ được xây dựng bằng cách tiếp thu những đóng góp có ý nghĩa từ các nhà phát triển Ethereum.

Đây là lý do tại sao Geth đã trở thành điểm tham khảo cho nền tảng của ngành công nghiệp này. Các chuỗi đã fork Geth và tạo ra một blockchain không phải Ethereum nhưng vẫn đang đóng góp vào nền tảng giống như Ethereum. Các Geth fork mà lệch khỏi bản tham chiếu thì cũng sẽ lệch so với các hiệu ứng mạng trong web3. 

EVM Peloton

Peloton là chỉ một nhóm VĐV đạp xe chạy chung và gần nhau để đỡ tốn sức, thực hiện chắn gió chiến thuật cho những VĐV chủ chốt bứt tốc để dành thắng lợi chung cuộc. Đi giữa một nhóm phát triển tốt, lực cản có thể giảm xuống ít nhất là 5% –10%.

Nói cách khác, nếu bạn muốn chạy nhanh hơn trong một khoảng thời gian ngắn, hãy chạy một mình. Nhưng nếu bạn muốn tiến xa hơn, hãy đi cùng nhau.

Sâu bướm trong rừng nhiệt đới di chuyển theo nhóm nhanh hơn là cá thể

Các cộng đồng nguồn mở sẽ phát triển nhanh hơn các cá nhân hoặc nhóm nhỏ tập trung. Lý do tại sao ngành công nghiệp blockchain phát triển nhanh như vậy là vì nó là chuỗi hợp tác. Các thành viên trong nhóm sẽ xây dựng, giúp đỡ nhau và khi một trong số các thành viên thành công thì đồng nghĩa cả nhóm thành công. 

Equivalence EVM là pulbic-good giống như thành phố nổi lên theo kiểu bottom-up. Mặt khác, compatibility EVM là bản sao chép một lần của điều đó. Có vô số cách khác nhau để lệch khỏi EVM, nhưng chỉ có một cách để tuân thủ nó.

Nhân rộng Application Layer

Tạo ra một hệ sinh thái L2 Equivalence EVM là rất quan trọng để duy trì các hiệu ứng mạng về khả năng tổng hợp và khả năng tương tác.

EVM equivalent rollup cho phép copy và paste ngay lập tức các cơ sở mã trên các chuỗi. Sự phát triển và đổi mới trên một EVM-equivalent rollup có thể chuyển đổi liền mạch sang bất kỳ EVM-equivalent ORU nào khác và cả chính Ethereum. Vì mọi thứ đang được phát triển trên tiêu chuẩn EVM, nên các hiệu ứng mạng của L1 được mở rộng sang L2 và những đổi mới trên L2 sẽ vang lên trong toàn bộ hệ sinh thái.

Một dòng code đơn lẻ có ý nghĩa hơn khi nó được triển khai trên ORU. Nếu bạn là nhà phát triển mã nguồn mở và bạn muốn mã của mình được sử dụng rộng rãi, thì đương nhiên bạn sẽ muốn sử dụng ORU tương đương của EVM.

Nếu bạn viết mã một lần nhưng nó hoạt động liền mạch trên 1.000 chuỗi tương thích, thì giá trị của những gì bạn vừa tạo ra sẽ lớn hơn nhiều. EVM Equivalence nâng hiệu ứng mạng EVM lên một cấp độ hoàn toàn mới.

Non-EVM-equivalent ORU sẽ không được hưởng lợi từ các hiệu ứng mạng chia sẻ này vì các non-EVM-equivalent ORU không thỏa mãn triết lý thiết kế ‘minimal-diff’.

Làn sóng hiệu ứng mạng Ethereum được kết hợp bởi mỗi ORU tương đương của EVM. Nếu không lướt trên con sóng này, bạn sẽ phải bơi rất vất vả để bắt kịp.

Nhân rộng Protocol Layer

Các hiệu ứng mạng EVM này không chỉ áp dụng cho application layer của Ethereum. Nó cũng áp dụng cho chính protocol layer.

Bởi vì các EVM-equivalent ORU khác rất ít so với Ethereum, chúng cung cấp cho Ethereum một thử nghiệm cho các EIP mới trong môi trường sản xuất thực tế.

Ngay bây giờ, các EIP được thử nghiệm với Ethereum testnet. Các EIP được thử nghiệm nhiều lần trên các testnet để đảm bảo không có vấn đề gì khi được tích hợp vào Ethereum L1.

Và điều đó luôn luôn rủi ro, việc triển khai EIP vào Goerli hoặc Koven không giống như triển khai EIP vào Ethereum. Sự khác biệt là quy mô và tầm quan trọng của hoạt động kinh tế trên Ethereum không thể bị các testnet mô phỏng. Luôn có một số ‘ẩn số’ khi triển khai EIP vào Ethereum.

Equivalence EVM cung cấp một giải pháp

Khi một EIP được triển khai thành công trên ORU tương đương của EVM, nó đảm bảo chắc chắn cho chuỗi cơ sở rằng cùng một EIP có thể được tích hợp thành công mà không có lỗi. ORU tương đương của EVM cung cấp một môi trường sản xuất trực tiếp với hoạt động kinh tế thực và vốn thực để stake các EIP. EIP có thể được kiểm tra ở lớp ORU mà không có nguy cơ bị hỏng và ảnh hưởng đến toàn bộ phần còn lại của hệ thống.

Khi L2 thường xuyên áp dụng cùng một EIP, nó báo hiệu cho Ethereum L1 rằng cộng đồng cần nó và nó có thể được tích hợp an toàn vào L1.

ORU tương đương của EVM cho phép Ethereum cảm nhận mong muốn của những người tham gia trên các L2 của nó, làm cho mỗi L2 trở thành một ăng-ten phù hợp với mong muốn của người dùng.

Bởi vì mỗi ORU là nền kinh tế có chủ quyền, nó sẽ triển khai các EIP khác nhau một cách độc lập và không đồng bộ, tách biệt với phần còn lại của hệ sinh thái, dựa trên nhu cầu và mong muốn của người dùng.

Theo thời gian, các EIP tốt nhất sẽ chiếm ưu thế trong bối cảnh ORU L2, vì ngày càng nhiều ORU độc lập nhìn thấy giá trị của cùng một EIP. Khi một EIP chiếm ưu thế trong toàn bộ bối cảnh ORU, nó sẽ báo hiệu cho Ethereum L1 rằng đó là một EIP tốt và an toàn khi triển khai ở lớp giao thức L1.

Sẽ có nhiều fork của Optimism trên Ethereum. Khi tất cả đều chấp nhận các EIP giống nhau, nó sẽ báo hiệu cho L1 chính rằng EIP là mong muốn và an toàn.

Tóm tắt ý nghĩa của Equivalence EVM

Equivalence EVM giúp Ethereum có thể mở rộng ra thị trường thứ cấp và ranh giới giữa Ethereum L1 và Equivalence EVM L2 cũng sẽ trở nên mờ nhạt dần. Nói cách khác, định nghĩa của L1 hoặc L2 trở nên ít quan trọng hơn, bởi vì tất cả đều "chỉ là" Ethereum.

Equivalence EVM tạo ra nền tảng cần thiết để tạo ra các đặc tính sản sinh như tự nhiên.

Với một hệ sinh thái EVM equivalent rollup, Ethereum có thể sao chép và tái sản xuất với tốc độ chóng mặt, đáp ứng nhu cầu của người dùng và cập nhật mã của nó để phản ánh những mong muốn đó.

Mỗi L2 có thể tiến triển theo hướng riêng của nó. Các L2 thành công thu hút được nhiều người dùng và có nhiều giá trị sẽ báo hiệu cho các L2 khác rằng nó đã phát hiện ra điều gì đó có giá trị. Tất cả chúng ta đều biết rằng ngành công nghiệp tiền mã hóa thực sự "hiệu quả", và một khi bất cứ thứ gì được chứng minh là hữu ích, nó sẽ được sao chép và sao chép.

Miễn là L2 tìm thấy một nguồn giá trị mới, nguồn giá trị này có thể được nhân rộng và chia sẻ trên toàn hệ sinh thái và cuối cùng được đưa trở lại trung tâm của hệ sinh thái.

EIP là chuỗi Gene mới

Trong thế giới của Ethereum module, EIP là gen mới. Các EIP tốt được tuyên truyền và EIP xấu dần biến mất.

Ethereum là một hệ thống thích ứng nhạy bén và các EVM-equivalent ORU cho phép các gen mới được triển khai đầu tiên ở rìa của sinh vật, và sau đó sau khi EIP mới này chứng minh được khả năng tồn tại của nó, EIP sẽ lan rộng ra các ORU khác. Nếu EIP đủ tốt, nó sẽ quay trở lại trái tim đang đập của Ethereum: L1.

Ethereum trở thành một sinh vật có thể phản ứng và thích ứng với môi trường của nó, ngay cả khi môi trường của nó thay đổi theo thời gian. Bộ gen của một sinh vật được cố định ngay từ đầu và Ethereum có khả năng phát minh và tích hợp các gen mới khi cần thiết để bắt kịp với nhu cầu thay đổi của thế giới.

Việc khám phá giá trị trong một mô hình EVM tương đương biến giá trị đó thành public-good có thể được chia sẻ trên toàn bộ hệ sinh thái Ethereum, không chỉ cho một L2 cụ thể.

Retroactive Public Good (RPGF) xây dựng cơ sở hạ tầng cho toàn bộ hệ sinh thái. RPGF sẽ đưa Ethereum từ một hệ thống phản hồi với người dùng sang một hệ thống có thể chủ động thực hiện hành động.

Optimism đang đi tiên phong trong một mô hình mới để tài trợ cho public-good, một mô hình đưa các biện pháp khuyến khích tài chính kiểu Silicon Valley vào các dự án.

Doanh thu được tạo ra từ phí không gian L2 sẽ trực tiếp đến tay những người đổi mới và người sáng lập, những người đã xây dựng nên những điều hữu ích cho Optimism L2. RPGF đầu tư tiền vào tương lai, trao quyền cho các nhà chế tạo và đảm bảo rằng nếu họ xây dựng hàng hóa công hữu ích.

Sự kết hợp giữa RPGF và EVM equivalence có nghĩa là khi Optimism L2 tạo ra thứ gì đó hữu ích, nó sẽ ngay lập tức có sẵn cho toàn bộ phần còn lại của hệ sinh thái tương đương EVM sử dụng.

Doanh số bán hàng của Blockspace trên Optimism biến thành cơ sở hạ tầng không chỉ cho Optimism  L2 mà cho tất cả L2 và cuối cùng là chính Ethereum. 

Sự kết hợp hữu cơ tương đương giữa RPGF và EVM cung cấp một giải pháp hiệu quả để giải quyết giải quyết nhiều vấn đề không chỉ cho Optimism, các L2 và Ethereum mà cho toàn bộ nền công nghiệp blockchain.

Theo David Hoffman, Co-founder của Bankless

Có thể bạn quan tâm

Mục lục