Pocket Network giải quyết vấn đề xử lý quyền truy cập của Web3 với node chống kiểm duyệt, không có thời gian chết và không có phí ẩn.
Tổng quan
- Sự phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng tập trung tạo ra những khuyết điểm và làm giảm đi tính phi tập trung.
- Pocket Network giải quyết vấn đề xử lý quyền truy cập của Web3 với node chống kiểm duyệt, không có thời gian chết và không có phí ẩn.
- Pocket được thiết kế để tạo điều kiện cho một tương lai đa chuỗi, tích hợp với hơn 40 blockchain và phát triển nhanh chóng với dịch vụ chuyển tiếp trung bình hàng ngày (tăng 52 lần so với cùng kỳ năm ngoái) và số lượng node dịch vụ (tăng 24 lần so với cùng kỳ năm ngoái).
- Bất chấp vấn đề lạm phát cao của Pocket, phần thưởng tuyến tính làm tăng 30% tổng nguồn cung POKT trong 3 tháng. DAO đang được thúc đẩy để ngăn chặn lạm phát.
- Việc nâng cấp Pocket V1 là một bước quan trọng hướng tới một mạng lưới có khả năng mở rộng cao được trang bị chất lượng dịch vụ cấp doanh nghiệp.
Đánh đổi
Các nhà phê bình chỉ ra rằng hash rates được hợp nhất vào mốt số mining pool và các nền tảng hợp đồng thông minh phụ thuộc quá nhiều vào các nhà cung cấp cơ sở hạ tầng tư nhân, điều này có thể trở thành điểm thất bại tập trung. Khi các ứng dụng tối ưu hóa chi phí, họ thường chọn đánh đổi tập trung đặc biệt là khi chi phí lớn hơn lợi ích của phân cấp. Trên hết, cơ sở hạ tầng tập trung cung cấp dịch vụ chất lượng cao, làm cho chúng trở thành lựa chọn ưu tiên trên nhiều phương diện.
Để tách khỏi một cơ sở hạ tầng tập trung sẽ đòi hỏi các giải pháp phân tán với chất lượng dịch vụ cấp doanh nghiệp. Chất lượng, chi phí và phân cấp là 3 yếu tố quan trọng mà các nhà cung cấp cơ sở hạ tầng Web3 cần thực hiện để có cơ hội áp dụng rộng rãi.
Pocket: Định tuyến thông tin trong giao dịch Blockchain
Pocket phấn đấu trở thành một giải pháp truy cập phi tập trung hàng đầu tập trung giải quyết 3 vấn đề: dịch vụ xử lý RPC chống kiểm duyệt, zero downtime (không có thời gian chết) và không có phí ẩn.
Pocket Network nhằm loại bỏ những bước cơ bản trong một giao dịch blockchain thông thường.
Ví dụ trong một giao dịch Ethereum, các hợp đồng thông minh chứa các code được lập trình logic với nhau tương thích với Máy ảo Ethereum (EVM). Bất cứ khi nào tương tác với các hợp đồng này, người dùng cần gửi yêu cầu của họ đến một node Ethereum có EVM. Node này có thể là một node nội bộ hoặc bên ngoài. Nếu người dùng chạy node nội bộ, họ có thể đọc dữ liệu chuỗi cũng như xác thực giao dịch để truyền đến mạng lưới mà không cần kết nối bên ngoài.
Tuy nhiên để chạy node khá tốn kém, không hiệu quả và bị hạn chế bởi các vấn đề về hiệu suất như thời gian chết và độ trễ cao. Thay vì làm những điều rủi ro mà không tối ưu, các ứng dụng đã tham khảo những dịch vụ node để thu thập dữ liệu chuỗi và xử lý các giao dịch của họ.
Nguồn: BlockChannel
Việc truy cập vào một blockchain thông qua node bên ngoài, yêu cầu người dùng xác định một điểm tương tác đầu tiên. Vậy ai sẽ cung cấp thông tin về trạng thái chuỗi? Ai sẽ nhận yêu cầu giao dịch đầu tiên? Node nào sẽ kiểm tra giao dịch được gửi có hợp lệ hay không trước khi phát hành nó vào chuỗi?
Điểm tương tác bên ngoài đầu tiên này được xác định bằng cách sử dụng RPC, một API cho phép ứng dụng gửi yêu cầu của họ đến một node được chỉ định thông qua URL.
Các tương tác, giao dịch thay đổi trạng thái và yêu cầu thông tin được thể hiện ở URL. Khi người dùng thực hiện một hành động cụ thể trên ví của họ, nó sẽ kích hoạt một cuộc gọi, dẫn đến yêu cầu API được chuyển đến một node.
Ví dụ: Metamask chọn Infura làm nhà cung cấp điểm cuối RPC mặc định của họ. Nếu người dùng muốn gửi tiền đến một địa chỉ khác hoặc để kiểm tra số dư token của ví của họ, Metamask sẽ chuyển yêu cầu của họ đến các node do Infura vận hành.
Việc này khiến các ứng dụng phụ thuộc rất nhiều vào các nhà cung cấp node tập trung như Infura và Alchemy. Việc tập trung khiến mạng có các nhược điểm với thời gian chết bất ngờ và mối đe dọa kiểm duyệt. Một trường hợp kiểm duyệt mới đã xảy ra với Infura và Metamask là chặn các giao dịch có nguồn gốc từ Venezuela.
Giao thức RPC phi tập trung của Pocket Network được thiết kế để khắc phục các vấn đề này với một mạng thiết kế nhiều node phân tán để dự phòng cho các trường hợp cần thiết. Khác với những nền tảng tập trung trước đây bị ràng buộc khi mở rộng node, Pocket Network không có gánh nặng điều hành node của riêng họ mà hoạt động tương tự như Uber và Airbnb.
Là một mạng lưới trung gian cung cấp điều phối Pocket có thể hoạt động như một Layer 0 mặc dù là một Layer 1 và nhanh chóng mở rộng các dịch vụ thành các chuỗi mới. Cho đến nay, mạng đã có thể thu hút 34.000 node dịch vụ dự kiến vẫn tiếp tục tăng, trong khi mở rộng đến hơn 40 mạng trong một khoảng thời gian ngắn. Do đó, Pocket đã trở thành một trong những nhà cung cấp cơ sở hạ tầng phi tập trung phát triển nhanh nhất.
Pocket giúp kết nối vào nhiều blockchain như thế nào?
Pocket Network V0 thiết kế với nhiều tích hợp mạng tiếp cận với thế giới blockchain. Dịch vụ này dựa trên 3 thành phần chính: Ứng dụng, node và lớp mạng.
Trong hệ sinh thái Pocket, các ứng dụng hoạt động trên các giao thức hợp đồng thông minh như Ethereum và Harmony. Họ tìm kiếm các dịch vụ xử lý yêu cầu API từ hệ thống node phân tán của Pocket, tạo thành nguồn cung của mạng. Về phía nguồn cung của thị trường, có 2 loại node đảm bảo đáp ứng nhu cầu cầu nối thông tin của các ứng dụng là: service node và validator node.
Bất cứ ai cũng đều có thể chạy node và kết nối các ứng dụng với relay handlers cũng như có thể bảo mật mạng. Tuy nhiên, Pocket yêu cầu các node staking ít nhất 15.000 POKT để đủ điều kiện xử lý các yêu cầu API ứng dụng và thực hiện thông tin liên chuỗi.
Những relay handlers này là các node dịch vụ nằm giữa Pocket Network và blockchain bên ngoài, thực hiện bằng cách chạy một node Pocket và ít nhất một node RelayChain (node trên mạng tích hợp) để kết nối các ứng dụng với các mạng bên ngoài. Trong số các node dịch vụ này, top 1000 node có lượng staking nhiều nhất có thể trở thành validator node. Validators kiểm tra các node dịch vụ xử lý giao dịch và các khối có hợp lệ hay không thông qua việc triển khai Tendermint PoS của Pocket.
Lớp mạng là một tập hợp các quy tắc nằm bên dưới, điều phối các hoạt động quan trọng như quản lý node dịch vụ, cơ chế thưởng, phạt và giải quyết tranh chấp.
Giao dịch trong thế giới thực
Mặc dù các ứng dụng là người dùng chính của Pocket Network, người dùng Web3 thông thường cũng có thể trải nghiệm cách thức hoạt động TCP/IP của cơ sở hạ tầng node Web3 hoạt động bằng cách thay đổi RPC Metamask thành các public node của Pocket. Các ứng dụng tạo điều kiện cho Pocket truy cập vào Portal của website để yêu cầu điểm cuối RPC, hiện là điểm truy cập duy nhất cho các ứng dụng. Tích hợp trực tiếp và chống kiểm duyệt hơn thông qua PocketJS.
Trái ngược với mô hình thanh toán dựa trên đăng ký của các nhà cung cấp tập trung, Pocket Network không yêu cầu thanh toán trực tiếp từ các ứng dụng thay vào đó nó áp dụng một mô hình stake-to-use yêu cầu người dùng staking POKT để truy cập các dịch vụ.
Các ứng dụng có thể chọn đăng ký free tier hoặc stake-based. Gói free tier của Pocket phục vụ số lượng relay tương tư như gói đăng ký 225$/tháng của Infura: 1 triệu relay/ngày. Các ứng dụng có thể đăng ký free tier hoặc có thể staking POKT và hưởng lợi từ các dịch vụ. Tuy nhiên khi nâng cấp V1 mới có thể staking để đảm bảo mở rộng quy mô bền vững và dịch vụ chất lượng cao.
Bảng điều khiển của Pocket được trang bị các công cụ để hỗ trợ chất lượng dịch vụ. Trước khi kết hợp các ứng dụng với các node dịch vụ, nó chạy kiểm tra đồng bộ hoá và tính năng Cherry Picker đảm bảo các node được đồng bộ hóa với trạng thái hiện tại của chuỗi và hoạt động ở độ trễ thấp. Khi các ứng dụng bắt đầu sử dụng URL để gửi thông tin đến chuỗi không phải chuỗi gốc (ví dụ: yêu cầu xem tổng số tiền gửi trong lending pool Aave), node của Pocket sẽ gửi yêu cầu chuyển tiếp đến mạng.
Các dữ liệu trong các phiên được cập nhật thường xuyên để chỉ định các node dịch vụ xử lý các yêu cầu chuyển tiếp của ứng dụng trong một khoảng thời gian định trước. Hiện tại, một ứng dụng có thể kết hợp được với 24 node dịch vụ trong một phiên và 4 block cho dịch vụ chuyển tiếp. 24 node thường phục vụ một ứng dụng trong khoảng 1 giờ trước khi một phiên mới bắt đầu và ứng dụng sẽ ghép với các node mới.
Nguồn: Pocket Network
Các node dịch vụ yêu cầu chuyển tiếp đến và đi từ non-native chain và theo dõi số lượng relay được phân phối. Sau khi phiên hoàn tất, họ gói chúng theo lô và gửi chúng dưới dạng proof-of-relays đến Finality Storage. Các validator node kiểm tra tính hợp pháp của các bằng chứng để xem liệu các node dịch vụ có thực sự cung cấp dịch vụ hay không.
Vào cuối quá trình sản xuất khối, nếu relay hợp lệ và ứng dụng không invoke Challenge Transaction để ngăn chặn proof-of-relay, mạng sẽ mint token tỷ lệ với khối lượng relay (hiện tại là 0,00843 POKT/relay). Pool thưởng được phân phối giữa những người điều hành như sau:
- Service node: 89% mint từ POKT
- Pocket DAO: 10%
- Validator node: 1%
Các node dịch vụ chiếm tỷ trọng cao. Kết hợp hình thức generalized mining thúc đẩy POKT như một đơn vị thanh toán cho những người làm việc với mạng lưới với tiềm năng lợi nhuận sinh lợi cho các node dịch vụ, mạng đã thành công trong việc trở thành nguồn cung cho thị trường. Điều này giúp nó tăng ~ 24 lần so với cùng kỳ năm ngoái, hiện đang ở mức hơn 34.500.
Không có thời gian chết, không có phí ẩn và cung cấp dịch vụ chống kiểm duyệt cũng như tùy chọn free tier hấp dẫn của Pocket. Tất cả những điều này đã giúp mạng lưới bổ sung được nguồn cung của thị trường. Hiện tại giao thức xử lý trung bình hơn 200 triệu relay mỗi ngày, tăng ~ 52 lần so với cùng kỳ năm ngoái.
Sau khi tích hợp giữa Pocket Network với Harmony vào tháng 10/2021, số lần chuyển tiếp hàng ngày đã tăng lên đáng kể. Khi người dùng Harmony gặp sự cố với các nhà cung cấp RPC mặc định và chuyển sang giải pháp Pocket, Pocket đã tận dụng và thu hút được một lưu lượng mạng đáng kể sau khi tích hợp. Tính đến nay khoảng 150 triệu trong số 200 triệu relay hàng ngày bắt nguồn từ Harmony.
Năm 2021, mạng lưới đã phục vụ 6,4 tỷ relay cho Harmony và 3,7 tỷ relay cho Ethereum. Mặc dù những con số này còn nhỏ so với 12 tỷ của Infura vào năm 2019 và 2 tỷ cuộc gọi ETH_call hàng ngày vào năm 2020 nhưng sự tăng trưởng của Pocket Network trong thời gian ngắn vẫn đáng được chú ý. Mất 10 tháng để Pocket đạt được cột mốc 1 tỷ relay đầu tiên và chỉ 6 tháng nữa để xử lý số lượng relay tương tự trong vòng chưa đầy một tuần.
Tokenomics và Cơ chế thưởng
2 yếu tố để một dự án thành công là công nghệ kỹ thuật của chuỗi và mô hình kinh tế của nó. Với mối quan tâm của cộng đồng tập trung vào tính bền vững trong hàng loạt các tokenomics lạm phát cao, chu kỳ kinh tế của giao thức được chia thành 3 giai đoạn trong đó POKT sẽ được điều chỉnh để đạt được mức tăng trưởng nhanh trước và sau đó chuyển sang nền kinh tế bền vững hơn.
Sau khi trở thành nguồn cung bền vững trong giai đoạn khởi động, giao thức hiện đang trong giai đoạn tăng trưởng. Giống như cách Pool 2 thu hút thanh khoản trong DeFi, giai đoạn tăng trưởng của mô hình khi token gốc có APR cao thu hút thanh khoản dịch vụ, từ đó đẩy nhanh sự phát triển của khả năng dịch vụ chuyển tiếp và tích hợp mạng.
Khi lạm phát tăng cao hơn số lượng POKT staked và khi giá POKT tăng lên mức bền vững, sẽ ra mắt Pocket DAO.
Giai đoạn trưởng thành
Nhìn chung tokenomics POKT được thiết kế để thu hút những người tham gia dài hạn và giảm thiểu đầu cơ. Điều này được thực hiện trong 2 trường hợp: Bí mật trục xuất các chủ sở hữu token không tham gia mạng lưới thông qua tỷ lệ lạm phát cao và tách quyền quản trị khỏi chủ sở hữu token thông qua yêu cầu bỏ phiếu dựa trên thành tích.
Đang có áp lực lạm phát ngày càng tăng đối với các token staked với việc phổ biến của mạng lưới tăng lên, do các nhà cung cấp node được thanh toán bằng các token mới được mint cho các dịch vụ chuyển tiếp của họ. Sự gia tăng nguồn cung token nhanh chóng làm mờ nhạt đi mô hình thanh toán low-cost stake của Pocket. Do giao thức chỉ giới hạn trên ứng dụng staking, sự khác biệt giữa nhu cầu thực tế và tổng cung tăng lên gây ra sự tăng giá đầu cơ, cần khắc phục để duy trì sự phát triển của mạng lưới.
Để đưa ra một ví dụ cụ thể, tổng cung POKT đã tăng từ 660 triệu lên 960 triệu trong 6 tháng qua. Tuy nhiên, lạm phát đã tỷ lệ thuận với sự gia tăng số lượng relay. Do đó, sự gia tăng các relay trung bình hàng ngày kết hợp với sự tăng giá đầu cơ đã bù đắp được việc lạm phát.
Sau khi chứng kiến sự tăng trưởng theo cấp số nhân trong vài tháng qua, sự khác biệt giữa nhu cầu và nguồn cung trở nên rõ ràng hơn. Cộng đồng đã hành động nhanh chóng và gần đây đã thông qua 2 đề xuất để thực hiện một cơ chế lạm phát bền vững hơn. Bằng cách áp dụng lạm phát giảm dần nhằm ổn định mạng lưới và burn token.
Khi áp lực lạm phát của việc mint token tuyến tính của Pocket trừng phạt các chủ sở hữu token không tham gia trong quá trình mở rộng mạng, các nhà đầu cơ POKT đã tìm cách tạo thu nhập bằng token của họ. Giải pháp phổ biến nhất là tài trợ node, trong đó chủ sở hữu POKT phân bổ token của họ cho người chạy node để chia sẻ dịch vụ.
Dịch vụ này chỉ có thể được truy cập thông qua các dịch vụ lưu ký. Hơn nữa, số lượng POKT stake không ảnh hưởng đến sự lựa chọn trong một phiên, khiến các operator node phân phối POKT của họ đến nhiều ví và tối đa hóa số lượng ví đủ điều kiện mà họ nắm giữ.
Cả 2 hiện tượng này đều có tác động mạnh đối với nguồn cung, do đó ảnh hưởng đến các đánh giá về sự tăng trưởng nguồn cung. Mặc dù sự tăng trưởng ADR/ASN của Pocket chỉ ra rằng mạng đã trải qua một sự áp dụng có phần cân bằng vào năm ngoái, một phần lớn khả năng xử lý relay vẫn chưa được sử dụng đúng mức. Gần đây, sự tăng trưởng nguồn cung vượt xa cầu, có nghĩa là lợi nhuận trung bình của các node đã từ đỉnh vào ngày 07/01/2022.
Nâng cấp V1
Gần đây độ trễ cao của mạng lớn hơn so với các giải pháp tập trung. Tuy nhiên, Pocket đã giải quyết được vấn đề này và đạt được độ trễ cạnh tranh bằng cách tăng số lượng node trong một phiên từ 5 lên 24 và cải thiện các bộ lọc độ trễ.
Nguồn: Thử nghiệm nội bộ được thực hiện bởi nhóm Pocket Network.
Trên hết, nhóm Pocket tập trung vào việc cải thiện chất lượng dịch vụ với bản nâng cấp V1. Việc chuyển đổi sang V1 nhằm chuẩn bị cho Pocket Network mở rộng quy mô dịch vụ chuyển tiếp. Mục đích tiếp tục giảm độ trễ và tăng cường mạng theo nhiều cách với kiến trúc chuỗi mới. Nản nâng cấp sẽ cung cấp các cơ chế thiết kế mới trên 4 mô-đun khác nhau của chuỗi: Tiện ích, đồng thuận, ngang hàng và tính bền bỉ, dự kiến ra mắt năm sau.
Bởi vì Pocket Network phải duy trì chất lượng dịch vụ tốt hơn với các đối thủ cạnh tranh tập trung, họ dự định kết hợp các cải tiến lớn cho cơ chế khuyến khích và kiểm duyệt của họ để tối ưu hóa cho mạng lưới.
Một thay đổi lớn là việc bổ sung một đại lý mạng mới. Việc sử dụng kém hiệu quả proof-of-relay challenging đã khiến Pocket giới thiệu một đại lý mới trong V1 là Fisherman. Được ngụy trang dưới dạng ứng dụng, đại lý mới này sẽ đóng vai trò của một người kiểm tra và các chấm điểm các node về tính khả dụng, độ trễ và tính nhất quán của các dịch vụ của họ.
Pocket V1 cũng sẽ kết hợp một cơ chế phần thưởng tập trung vào chất lượng. Trong V0, Cherry Picker xếp hạng các node theo độ trễ của chúng và đảm bảo những node có độ trễ cao sẽ ít trường hợp sử dụng hơn. Cơ chế mới này thì tập trung vào chất lượng chứ không phải độ trễ.
Việc mở rộng quy mô để xử lý hàng nghìn tỷ relay đòi hỏi một cơ sở hạ tầng rất mạnh mẽ, Pocket V1 tập trung vào việc đảm bảo mạng lưới đã sẵn sàng mở rộng quy mô. Hiện tại, Tendermint BFT yêu cầu mở rộng giao tiếp giữa các node điều mà gây tắc nghẽn để mở rộng số lượng node. Trong V1 giao thức sẽ áp dụng việc triển khai HotStuff BFT giúp việc giao tiếp chuyên biệt và phương pháp phân tán tin nhắn hiệu quả điều này giúp việc sử dụng băng thông thấp hơn và hiệu quả mạng cao hơn.
Việc áp dụng Fisherman vào mạng sẽ có thể sửa đổi thiết kế giao thức để đáp ứng với vai trò cho các node. Gần đây, giao thức đã tách các tác vụ giữa các validator node và các service node để đảm bảo chúng ít bị ràng buộc bởi các yêu cầu của nhau. V1 nhằm mục đích tăng gấp đôi tính năng chuyên môn hóa do đó mạng sẽ thực hiện các yêu cầu xử lý trách nhiệm duy nhất của các service node và cho phép họ phân bổ tài nguyên để tăng hiệu quả mạng.
V0 cho phép các nhà phát triển truy cập các dịch vụ xử lý RPC mà không có thời gian chết và không có phí ẩn. V1 sẽ tập trung vào việc nhân đôi các đề xuất giá trị hiện tại thay vì mở rộng phạm vi hoạt động. Vì tính năng staking chưa cho phép và khả năng mở rộng chưa được tối ưu, tiềm năng thực sự của mạng sẽ rõ ràng hơn khi bản nâng cấp V1 phát hành.
Kết thúc
Người dùng đang cho rằng việc cấp phép hiện tại vào Portal của Pocket không phải phân quyền thật sự. Không phải tất cả các node đều được tạo theo proof-of-useful-work (generalized mining) của Pocket. Và số lượng node có thể tăng hơn nữa với các nhà cung cấp node chuyên nghiệp sau khi các giải pháp V1 đưa ra.
Thứ nhất nên thực hiện bất kỳ các nỗ lực nhằm giảm đi các nhược điểm có thể kiểm duyệt.
Thứ hai, Pocket nhằm mục đích ngăn chặn những điều này bằng cách chuyển sang quyền truy cập ứng dụng không được phép, tối ưu hóa hiệu quả trong V1 để giảm các yêu cầu kỹ thuật để chạy node và đưa ra phương pháp cho các node nhỏ một lợi thế cạnh tranh. Do đó, sự phân cấp đầy sẽ phát triển dần dần.
Cuối cùng, Web3 cần một cơ sở hạ tầng phi tập trung hơn. Một tương lai đa chuỗi phụ thuộc vào sự tích hợp liền mạch giữa nhiều mạng đòi hỏi cơ sở hạ tầng phi tập trung nhiều hơn nữa. Vì trọng tâm trong những năm qua chủ yếu dựa vào việc tăng cường hệ sinh thái hợp đồng thông minh với các Layer 2 và các mạng thay thế Layer 1, tầm quan trọng của phần mềm trung gian phi tập trung vẫn còn được phát triển. Với mạng lưới node phân tán để giải quyết một trong những khó khăn của không gian, Pocket Network có thể trở thành chìa khóa giúp người dùng trong không gian tiền điện tử tách khỏi những nền tảng tập trung.