Mặc dù ApeCoin hiện không hoạt động, nhưng nó là một chủ đề được các nhà giao dịch quan tâm khá lớn trong bối cảnh thị trường NFT cũng đang trong giai đoạn rất bùng cháy.
Vào ngày 17 tháng 3 năm 2022, Yuga Labs – chủ sở hữu của thương hiệu Bored Ape Yacht Club (BAYC – Câu lạc bộ Du thuyền Bored Ape) và các công cụ phái sinh liên quan – đã ra mắt Ape Coin (APE). Người nắm giữ BAYC và các NFT liên quan đến BAYC có thể yêu cầu một lượng lớn ApeCoin miễn phí, đồng thời thanh khoản của token cũng được thêm vào trên các sàn giao dịch lớn như FTX. Mặc dù ApeCoin hiện không hoạt động, nhưng nó là một chủ đề được các nhà giao dịch quan tâm đáng kể tỏng bối cảnh thị trường NFT cũng đang rất bùng cháy.
Mặc dù sự ngoi lên của ApeCoin một lần nữa khiến thị trường NFT dần nóng lên, tuy nhiên Buterin Buterin đánh giá trong bài báo trên "Tạp chí Time" của mình rằng việc phát hành đồng coin của BAYC là vô nghĩa và là một hình thức đánh bạc. Theo một quan điểm, về cơ bản thì sau đợt lao dốc đầu tiên sau khi ra mắt của ApeCoin, giá của token đã tăng 2,5 lần trong 24 giờ tiếp theo, với mức định giá bị pha loãng hoàn toàn là hơn $15 tỷ đô la. Trước tình hình giá cả như vậy, mô hình kinh tế đằng sau ApeCoin là gì, và tính thanh khoản của nó đến từ đâu? Tiếp theo, bài viết này sẽ tiết lộ nguồn thanh khoản quan trọng của ApeCoin là ở đâu.
Trong khi phần lớn khối lượng giao dịch ApeCoin là từ các sàn giao dịch tập trung như FTX và Binance, thì một phần đáng kể trong số đó cũng diễn ra on-chain, chủ yếu thông qua Uniswap trên mạng chính của Ethereum. Trong bài đăng này, chúng tôi báo cáo kết quả phân tích sơ bộ dữ liệu giao dịch on-chain trong 24 giờ đầu tiên, tập trung vào lợi nhuận của các nhà cung cấp thanh khoản. Các nhà cung cấp thanh khoản trên Uniswap V3 kiếm được doanh thu bằng cách tính phí các giao dịch (tỷ lệ phần trăm cố định cho tất cả khối lượng swap). Tuy nhiên, khi giá biến động, họ cũng chịu tổn thất vô thường (IL – impermanent loss), một hiện tượng trong AMM khi mà các pool tái cân bằng theo hướng "sai" do liên quan đến biến động giá. Vì vậy, việc các nhà cung cấp thanh khoản có sinh lời so với danh mục đầu tư của họ hay không phụ thuộc vào sự cân bằng giữa phí giao dịch và tổn thất vô thường (IL).
Quan sát sơ bộ
Ngay sau khi ra mắt ApeCoin trên sàn giao dịch tập trung, thanh khoản đã được khởi tạo trên Uniswap V3, trước tiên thông qua pool APE/ETH, và sau đó thông qua pool APE/USDC khoảng một giờ sau đó. Có một đợt tăng giá ban đầu và sau đó là giảm mạnh, vài giờ tiếp đến mỗi APE có giá khoảng $8, và bắt đầu tăng đều đặn, đạt mức cao trên $16 vào cuối 24 giờ đầu tiên:
Ngoài một số biến động mạnh trong giờ giao dịch đầu tiên (có thể do tính thanh khoản kém nghiêm trọng), giá ApeCoin rất nhất quán trên cả hai nhóm thanh khoản APE/ETH và APE/USDC: không có gì đáng ngạc nhiên, vì mặc định Uniswap sẽ định tuyến các giao dịch swap qua nhiều pool để việc thực thi diễn ra tốt nhất. Ngay cả sự chênh lệch giá mà không vượt quá phí hoán đổi cũng được trả bởi các người chơi chênh lệch giá.
Cần lưu ý rằng cả nhóm thanh khoản APE/ETH và APE/USDC trên Uniswap đều tính phí 1% – cao hơn so với các nhóm đang hiện hành thông thường (ví dụ: ETH/LOOKS chủ yếu giao dịch ở mức 0,3%), nhưng đây không phải là lần đầu khi SHIB và các token meme khác từng có mức phí 1%. Với sự quan tâm và giao dịch mạnh mẽ đối với ApeCoin, đây là một động lực hấp dẫn để người dùng tham gia và thêm thanh khoản với phí giao dịch cao. Tương ứng, số lượng vị thế thanh khoản mở trên Uniswap đã tăng vọt trong 12 giờ đầu giao dịch, cuối cùng ổn định ở mức khoảng 650:
Điều thú vị là phần lớn các vị thế thanh khoản được tạo trong các nhóm APE/ETH, không phải các nhóm APE/USDC. Tương ứng, nhóm APE/ETH cũng chứa hầu hết thanh khoản dưới dạng USD:
Trung bình, cả hai pool có kích thước vị thế thanh khoản tương tự nhau. Như biểu đồ bên dưới cho thấy, tất cả các vị thế thanh khoản đều dưới 10 triệu đô la. Tuy nhiên, sự phân bổ quy mô của vị thế vẫn khá rộng, từ các vị thế có giá $100 trở xuống cho đến bảy giá trị cao nhất.
Một trong những lý do khiến các nhà cung cấp thanh khoản thích APE/ETH là việc giảm thiểu được những tổn thất vô thường (IL). Về nguyên tắc, giá của APE và ETH phải tương quan với phần beta của thị trường; do đó, ETH thường là đơn vị tiền tệ được lựa chọn cho các tài sản dễ biến động, rủi ro cao như ApeCoin. Trong các khung thời gian ngắn nhất từ 1-2 ngày, sự biến động giá của ETH thường khá thấp, vì vậy các pool APE/ETH và APE/USDC sẽ không gặp phải các khoản lỗ vô thường (IL) khác nhau. Tuy nhiên, các nhà cung cấp thanh khoản rõ ràng thích cung cấp thanh khoản cho APE/ETH hơn là APE/USDC.
Sau khi giảm mạnh trong 6 giờ đầu tiên, tổng khối lượng giao dịch trên Uniswap của ApeCoin vẫn khá cao trong suốt cả ngày:
Chúng ta có thể thấy ngay rằng việc cung cấp thanh khoản cho ApeCoin trên Uniswap có thể là một nỗ lực rất có lợi. Nhìn vào biểu đồ: Giả sử chúng ta ước tính khối lượng trong 10 phút là 3 triệu đô la, tương ứng với mức phí 30.000 đô la. Nhân với số khoảng thời gian 10 phút trong một ngày và chia cho tổng thanh khoản 40 triệu đô la cho thấy rằng LP đã trả lại khoảng 10% lợi suất trong 24 giờ đầu tiên (trước khi tính đến khoản lỗ vô thường). Uniswap hiện tại ước tính mức phí 24h 11% TVL pool thanh khoản APE/ETH và được xác nhận bởi những tính toán này.
Tuy nhiên, phí phát sinh không phải là yếu tố duy nhất quyết định lợi nhuận của nhà cung cấp thanh khoản.
Tổn thất vô thường (IL) và chi phí phát sinh
Để hiểu rõ hơn về phần thưởng của việc cung cấp tính thanh khoản cho ApeCoin, chúng ta cũng cần xem xét hiện tượng Impermanent loss (IL) – Tổn thất vô thường. Bởi vì cung cấp thanh khoản trong một phạm vi giá nhất định về cơ bản là bán một tài sản hoạt động tốt khi nó tăng giá (tương đương với việc mua một tài sản tương đối kém hiệu quả khi nó giảm giá), danh mục đầu tư của nhà cung cấp thanh khoản được kỳ vọng sẽ thấp hơn hiệu quả của việc trực tiếp nắm giữ tài sản. Tuy nhiên, các nhà cung cấp thanh khoản có thể được hưởng lợi nếu phí giao dịch được thiết lập phù hợp dựa trên khối lượng giao dịch và mức độ biến động giá dự kiến.
Như chúng tôi đã quan sát trước đó, giá ApeCoin đã tăng mạnh trong 24 giờ đầu giao dịch. Do đó, những tổn thất vô thường mà các nhà cung cấp thanh khoản phải gánh chịu sẽ là đáng kể và tồn tại phần giá trị về việc họ biết được việc cung cấp thanh khoản có thật sự xứng đáng hay không.
Cuối cùng, chúng tôi ước tính tổn thất vô thường đối với mỗi vị thế thanh lý. Tính thanh khoản của mỗi vị thế thanh khoản có thể tăng và giảm nhiều lần giữa các giao dịch mint và burn, có nghĩa là chúng ta phải rất cẩn thận để xác định chính xác các khoản lỗ vô thường. Đối với mỗi vị thế thanh khoản, chúng tôi lập bảng dữ liệu tất cả các giao dịch bổ sung thanh khoản và theo dõi số lượng token của mỗi loại được thêm vào. Chúng tôi dò xét rằng tổn thất vô thường từ khi vị thế thanh khoản được mint cho đến khi bị burn (nếu nó đã được burn trong vòng 24 giờ đầu tiên sau khi bắt đầu) hoặc vào cuối 24 giờ.
Chúng ta cùng xem xét danh mục đầu tư "phản thực tế" xảy ra khi các nhà cung cấp thanh khoản lại quyết định chỉ giữ token trong ví của họ thay vì tạo bất kỳ vị thế nào như trên, cần xem xét những điều sau: Từ mỗi giao dịch nhằm bổ sung thanh khoản, giả định rằng nhà cung cấp thanh khoản quyết định hodl lại cùng một lượng token như vậy (APE, ETH và/hoặc USDC), thay vì được mint hoặc thêm vào vị thế thanh khoản. Vậy danh mục đầu tư của họ sau cùng có giá trị bao nhiêu vào cuối kỳ đánh giá?
Tiếp theo, chúng tôi tính toán chính xác theo vốn hóa thị trường của vị thế thanh khoản vào cuối giai đoạn đánh giá, điều này hoàn toàn được xác định bởi giá trị thị trường, phạm vi của vị thế thanh khoản và token được cung cấp. Cuối cùng, chúng tôi giả định chênh lệch giá trị giữa giá trị danh mục đầu tư "phản thực tế" và giá trị danh mục đầu tư thực tế vào cuối giai đoạn đánh giá mà không bao gồm thanh khoản đang mint, và chia mức giá trị chênh lệch này cho tổng số tiền thanh khoản mà họ cung cấp. Tỷ lệ được hiển thị bên dưới.
Vị thế thanh khoản trung bình mất 0,3% giá trị danh mục đầu tư ban đầu do tổn thất vô thường. Tuy nhiên, đồ thị phân bổ các khoản lỗ như vậy có phần đuôi bên phải đồ thị phải dài, và các vị trí mất trung bình 9,4% khoảng staking ban đầu của họ cho IL. (Tất nhiên, họ có thể thu được nhiều hơn từ việc chấp nhận rủi ro tiềm ẩn của ApeCoin). Trong trường hợp xấu nhất, một số người chịu mức IL đến 100% số tiền staking ban đầu của họ.
Có vẻ khó tin nhưng bảng xếp hạng dựa trên tổn thất vô thường (IL) bằng kiểm tra thủ công ba vị thế thanh khoản hàng đầu cho thấy rằng những con số này là chính xác:
#1 (204927) đã thêm 1 ETH thanh khoản tại mức khoảng 150.000 lần so với giá thị trường hiện tại của APE và hiện đang giảm 100% một cách tồi tệ.
#2 (205104) đã thêm 1.500 APE thanh khoản khi giá APE là 6,56 đô la với giá trị danh mục đầu tư ban đầu là 9,840 đô la. Vào cuối giai đoạn đánh giá, vị thế vẫn còn mở và giá APE là $14,78, gần mức tiệm cận trên của nó; vị thế chủ yếu là ETH với tổng giá trị $13,964. Ngược lại, nếu những người minting quyết định chỉ giữ hết 1.500 APE trong ví của họ, chúng sẽ trị giá $22.170 đô la. Sự khác biệt giữa cả hai quyết định đầu tư này là khoản tổn thất vô thường, là $8,206, gần bằng 84% giá trị ban đầu của họ.
#3 (205949) đã thêm 50.470 APE thanh khoản với giá APE là $7,96. Họ thiết lập một phạm vi rất hẹp cho các vị thế thanh khoản. Cụ thể, từ 0,0029 đến 0,0031 ETH cho mỗi APE, và 2,800 đô la mỗi ETH là khoảng $8,12 đến $8,68 đô la cho mỗi APE. Vào cuối 24 giờ đầu tiên, các vị thế của họ vẫn mở và các APE đã đang giao dịch cao hơn ngưỡng giới hạn trên. Về cơ bản, range action của họ tương tự như với Limit order (đặt lệnh giới hạn), bán APE từ $8,12 đô la đến $8,68 đô la dần (tăng khoảng 5% so với giá khởi điểm), vì vậy họ bỏ lỡ tất cả các lần mua vào những đợt tăng giá tiếp theo (phần giá trị trên mức giới hạn trên, tại $8,68) và vị thế của họ về cơ bản được chuyển đổi về 100% ETH).
Nhìn chung, trước xu hướng tăng có phần ổn định trong hành động giá của ApeCoin, thời gian mà vị thế vẫn mở có liên quan chặt chẽ đến mức độ tổn thất vô thường (IL):
Trong khi có sự biến động đáng kể trong mốc thời gian chính xác của việc mở và đóng các vị thế so với dự đoán, chúng ta thấy rằng việc giữ các vị thế mở lâu hơn cũng dẫn đến nhiều các tổn thất vô thường lớn.
Liệu phí giao dịch tích lũy có đủ để bù đắp cho mức độ nghiêm trọng của tổn thất vô thường không? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi đưa ra ước tính cơ bản về phí giao dịch được thực hiện bởi mỗi vị thế thanh khoản. Tại mỗi khoảng 10 phút, chúng tôi lập bảng các vị thế mà đang mở mà nằm trong khoảng phạm vi và tổng khối lượng swap cho khoảng thời gian đó. Để đơn giản, chúng tôi ước tính rằng phí giao dịch (1% khối lượng giao dịch) được phân bổ theo tỷ lệ cho tất cả các vị thế đang hoạt động (active) mà tỷ lệ tương ứng với giá trị thị trường.
Như chúng ta đã thấy, phí giao dịch kiếm được thường lên tới hàng chục nghìn đô la tùy thuộc vào quy mô và thời hạn của vị thế. Chia các khoản phí phát sinh này cho giá trị thị trường ban đầu của vị thế thanh khoản, chúng ta sẽ thấy rằng trung bình các khoản phí không đủ để bù đắp hết cho những tổn thất vô thường:
Các vị thế trung bình và tương đối trung bình lần lượt kiếm được khoản phí 3,3% và 5,7% so với khoản tiền gốc ban đầu của họ. Tuy nhiên, một tỷ lệ phần trăm đáng kể các vị thế vượt xa các số liệu thống kê này, với 21,9% các vị thế có tính thanh khoản cao hơn 10% số tiền gốc. Ví có hiệu suất cao nhất với ID 204926 đã kiếm được tới 33,1% so với giá trị ban đầu.
Bây giờ, chúng ta có thể trực tiếp trừ IL khỏi các khoản phí kiếm được để xem các nhà cung cấp thanh khoản có khả năng thu lợi nhuận như thế nào, so với danh mục đầu tư giả định trong đó họ chỉ nắm giữ APE và ETH/USDC thay vì tham gia tạo vị thế thanh khoản:
Do đó, câu trả lời về khả năng sinh lợi của ApeCoin là không – hầu hết các vị thế thanh khoản của ApeCoin không đem lại lợi nhuận khi có cân nhắc đến các khoảng phí và tổn thất vô thường (IL). Bởi vì nhiều vị thế vừa không được tính phí giao dịch (zero fee) và tổn thất vô thường (có thể bởi do việc vĩnh viễn nằm ngoài khoảng phạm vi), các vị thế trung gian kết thúc ngay tại điểm hòa vốn bằng 0. Tuy nhiên, có những khoản lỗ với "đuôi dài" đáng kể như đồ thị trên, với vị thế thanh khoản trung bình mất đi 3,8% vốn gốc trong tính toán này.
Lưu ý rằng điều này không có nghĩa là hầu hết các vị thế thanh khoản đều đang mất tiền so với số vốn ban đầu. Thay vào đó, điều này có nghĩa là số dư của các khoản phí và tổn thất vô thường (IL) có xu hướng hỗ trợ cho các khoản tổn thất vô thường từ hầu hết các vị thế thanh khoản trong 24 giờ giao dịch đầu tiên của ApeCoin trên Uniswap V3. Nếu nhà cung cấp thanh khoản được bảo hiểm đầy đủ (ví dụ: hợp đồng tương lai vĩnh cửu thông qua sàn giao dịch bên ngoài; giả sử chi phí vốn không đáng kể), điều này trực quan có thể được coi là một phân phối hoàn vốn (return distribution).
Trên thực tế, chúng tôi cũng có thể kiểm tra tỷ lệ tổng lợi nhuận của vị thế chia cho khoản đầu tư ban đầu bằng cách cộng giá trị danh mục đầu tư vào cuối giai đoạn đánh giá (khi vị thế được đóng hoặc vào cuối 24 giờ trước) vào trong cách ước tính phí tích lũy Giá trị kết hợp của chúng tôi:
Trong số gần 1.700 vị thế thanh khoản được nghiên cứu, 86% trong số mẫu là có sinh lợi, danh mục đầu tư ban đầu gồm các vị thế trung gian đã đạt mức sinh lời 7,7% và vị thế trung bình thì đạt mức lợi nhuận đáng kể là 13,5%. Tất nhiên, mức tăng cũng có thể giảm, và nếu giá ApeCoin giảm thay vì tăng, các nhà cung cấp thanh khoản sẽ thua lỗ nặng. Cuối cùng, những kết quả này cho thấy rằng một nhà cung cấp thanh khoản điển hình có lẻ tốt hơn hết không nên cung cấp thanh khoản và thay vào đó hãy trực tiếp nắm giữ ApeCoin trong ví để thu lợi từ khả năng tăng giá của nó.
So sánh với tính di động của môi trường
Việc cung cấp thanh khoản một cách tập trung trong Uniswap V3 có cả lợi ích và rủi ro. Nếu giá vẫn nằm trong khoảng phạm vi đã xác định trước, các nhà cung cấp thanh khoản có thể ăn phí giao dịch với hiệu quả về vốn cao hơn. Tuy nhiên, các nhà cung cấp thanh khoản lại phải đối mặt với viễn cảnh của việc thua lỗ nghiêm trọng và vĩnh viễn đối với các vị thế bị hủy kích hoạt (deactive), thậm chí không tính cả phí giao dịch nếu giá vượt xa giới hạn của vị thế.
Để so sánh, có thể minh họa cách mà thanh khoản trong mô hình xy = k cổ điển phát huy tác dụng (được triển khai trên Uniswap V2 và vẫn đang có hiệu lực trong Uniswap V3 bằng cách thiết lập khoảng phạm vi tối đa). Mô hình này phân tích đơn giản hơn nhiều, và giá trị của danh mục đầu tư tỷ lệ thuận với căn bậc hai của tài sản rủi ro (nếu chúng ta sử dụng ETH hoặc USDC làm mệnh giá). Về mặt giả thuyết, các nhà cung cấp thanh khoản chỉ đơn giản là thêm ngữ cảnh và thanh khoản xy = k vào, thay vì xác định các vị trí tập trung hẹp lại. Vậy lợi nhuận như thế nào?
Chúng tôi nhận thấy rằng, như được hiển thị bên dưới, tổn thất vô thường giảm đáng kể so với IL được quan sát trong dữ liệu vị trí thanh khoản thực tế:
Đáng chú ý, trường hợp xấu nhất đối với IL chỉ mất 15% giá trị danh mục đầu tư ban đầu, trái ngược với quan sát thực nghiệm của chúng tôi về nhiều khoản lỗ> 50% . Tiến thêm một bước nữa, trừ đi khoản IL xy = k giả thuyết, có vẻ như khoảng cách giữa khoảng tổn thất so với vốn gốc được xác định bởi khả năng sinh lời:
Nếu tất cả các nhà cung cấp thanh khoản đều cung cấp tính thanh khoản ở khắp nơi, thì 95% vị thế sẽ được hưởng lợi từ số dư phí và chỉ IL. Kết quả này cho thấy rõ ràng rằng các nhà cung cấp thanh khoản đã không ước tính chính xác mức độ biến động hoặc tăng giá trong tương lai, và do đó đã đánh giá thấp đáng kể mức độ của các vị thế thanh khoản của họ.
Các mẫu quan sát vị thế nằm ngoài phạm vi
Như chúng ta đã thấy ở trên, phí giao dịch tính trên các vị thế thanh khoản là đáng kể, ngay cả khi chúng không phải lúc nào cũng cao hơn các khoản lỗ vô thường. Để tính phí giao dịch một cách hiệu quả, các nhà cung cấp thanh khoản phải đảm bảo rằng phạm vi của các vị trí Uniswap V3 tập trung của họ đủ rộng. Nếu không, với hành động giá định hướng mạnh mẽ của ApeCoin trong nửa sau của khoảng thời gian mà chúng tôi đã nghiên cứu, các vị thế thanh khoản của chúng có thể bị vô hiệu khi giá vượt quá giới hạn của chúng. Điều này sẽ gây đau đớn gấp đôi vì họ sẽ bỏ lỡ sự tăng giá của ApeCoin và tất cả phí giao dịch thu được từ khối lượng hoán đổi sau khi vị thế của họ bị vô hiệu.
Bằng cách theo dõi các vị thế thanh khoản và giá chung theo thời gian, chúng tôi có thể tính toán chính xác tỷ lệ các vị thế thanh khoản mở đã thực sự nằm trong phạm vi trong 24 giờ trước:
Hơn 85% các vị thế thanh khoản APE/ETH và APE/USDC nằm trong phạm vi vào hầu hết 12 giờ đầu tiên. Nhưng khi giá ApeCoin bắt đầu tăng nhanh chóng, tỷ lệ nắm giữ APE/ETH giảm tới 50% và tỷ lệ nắm giữ APE/USDC giảm 30%, cho thấy rằng các nhà cung cấp thanh khoản đã không dự đoán được xu hướng tăng nhanh chóng và do đó đã đặt phạm vi cho vị thế của họ quá hẹp. Việc chồng chéo giá ApeCoin theo thời gian như biểu đồ trên làm cho xu hướng này trở nên đặc biệt rõ ràng (lưu ý rằng giá ApeCoin đã được tái thay đổi tùy ý để phù hợp với cùng một trục tung):
Biểu đồ phân tán (plot chart) ở trên cho thấy một động lực thú vị. Nhìn chung, chúng tôi thấy rằng tỷ trọng theo khối lượng của thanh khoản mà trong phạm vi nói chung cao hơn tỷ trọng của các vị thế riêng lẻ không có tỷ trọng trong phạm vi, điều này cho thấy rằng các vị thế thanh khoản lớn hơn thường có nhiều khả năng nằm trong phạm vi hơn. Hiện tượng này có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Ví dụ: trên mạng chính Ethereum, phí giao dịch có thể khá cao; do đó, việc quản lý chủ động các vị thế thanh khoản đem lại nhiều giá trị hơn đối với các quy mô vị thế lớn hơn, vì lợi ích của việc duy trì việc nằm trong phạm vi ngày càng lớn hơn so với chi phí cố định của việc trả phí gas. Ngoài ra, các nhà cung cấp thanh khoản lớn hơn có khả năng lớn hơn trong việc áp dụng phương pháp có phần phức tạp và chủ động trong quản lý thanh khoản tổng thể, nơi mà họ liên tục theo dõi biến động giá và cân bằng lại các vị thế khi cần thiết, hoặc đưa ra dự báo sáng suốt hơn về biến động giá trong tương lai, nhằm thiết lập phạm vi cho vị thế thanh khoản.
Các nhà cung cấp thanh khoản đương nhiên không muốn các vị thế của họ nằm ngoài giới hạn, vì vậy các biên giới hạn trên và dưới nên được đặt ra cho các vị thế thanh khoản mới nhằm phản ánh kỳ vọng về biến động giá trong tương lai. Những kỳ vọng này có thể thay đổi tự nhiên theo thời gian khi các nhà cung cấp thanh khoản mới và hiện tại quan sát được sự biến động giá của ApeCoin. Nếu chúng ta kiểm tra biên giới hạn trên của các vị thế thanh khoản mới được tạo ra xuyên suốt thời gian, chúng ta có thể thấy rằng đây thực sự là trường hợp như vậy:
Đặc biệt, chúng tôi quan sát thấy rằng khi giá ApeCoin tăng trong nửa sau của khoảng thời gian 24 giờ, giới hạn trên của các khoản holding mới không tương xứng với sự tăng giá của ApeCoin (tức là giới hạn trên không phải lúc nào cũng là một khoảng cách không đổi so với giá hiện tại của ApeCoin). Điều này cho thấy rằng khi các nhà cung cấp thanh khoản bắt đầu quan sát giá ApeCoin tăng lên, họ cũng đang điều chỉnh tăng kỳ vọng của mình về sự tăng trưởng giá trong tương lai. Một xu hướng tương tự có thể được quan sát đối với giới hạn dưới của các vị trí mới được tạo:
Vào cuối 24 giờ đầu tiên, mức sàn tối thiểu cho các vị thế thanh khoản mới đã bắt đầu trùng lặp với giá thực tế của ApeCoin 18-24 giờ trước.
Cuối cùng, để so sánh rõ ràng hiệu quả về lợi suất của các pool thanh khoản APE/ETH và APE/USDC mà tính phí giao dịch theo thời gian, chúng ta có thể lấy khối lượng swap cho mỗi pool tại mỗi thời điểm và đo lường nó bằng thanh khoản đang hoạt động (nằm trong phạm vi). Tỷ lệ được biểu đồ hóa như dưới đây (Log scale – biểu đồ logarit được sử dụng để mô tả rõ hơn).
Chúng ta thấy rằng các khoản phí tích lũy phí trong pool APE/ETH tốt hơn một chút so với trong pool APE/USDC về tính nhất quán và số giá trị tuyệt đối trung bình của khoảng phí. Tuy nhiên, sự khác biệt là không đáng kể, điều này cho thấy thị trường ngầm cung cấp thanh khoản để giữ cho phí và tỷ lệ TVL giữa hai pool tương đối bằng nhau. Lưu ý rằng có một số yếu tố khác nhau tiềm ẩn trong số liệu này: khối lượng giao dịch, tổng lượng thanh khoản được cung cấp và tỷ lệ phần trăm thanh khoản thực sự được cung cấp trong phạm vi đã cho.
Tóm lại
Việc cung cấp tính thanh khoản trên Uniswap V3 đòi hỏi một sự cân bằng khéo léo của nhiều yếu tố khác nhau. Các nhà cung cấp thanh khoản phải dự báo về xu hướng và biến động giá trong tương lai và thiết lập khoảng phạm vi thích hợp cho các vị thế thanh khoản chính của họ để tối đa hóa phí giao dịch trong khi giảm thiểu thiệt hại vô thường mà họ phải đối mặt. Cung cấp tính thanh khoản có thể là một nỗ lực tạo khả năng sinh lợi nếu được thực hiện đúng; nếu không, nó có thể rủi ro và đôi khi rất tốn kém.
Lợi ích của việc tập trung hóa thanh khoản là rất lớn: Uniswap V3 cho phép phân phối tùy ý thanh khoản để nhân rộng giá, cải thiện đáng kể hiệu quả sử dụng vốn và thực thi việc swap được vượt trội hơn. Tuy nhiên, những kết quả này cũng nhấn mạnh lên tầm quan trọng của việc phát triển hơn nữa các sàn DEX thanh khoản tập trung. Các lần lặp lại trong tương lai của mô hình này sẽ cung cấp một lộ trình hướng dẫn tốt hơn cho các nhà cung cấp thanh khoản và hỗ trợ việc giám sát và quản lý chủ động các vị thế thanh khoản, điều này sẽ dẫn đến sự phát triển của một hệ sinh thái cung cấp thanh khoản lành mạnh, có thể tự duy trì và cần thiết về lâu dài. Sự thành công lâu dài của tài chính phi tập trung.
Tuyên bố từ chối trách nhiệm: Là một nền tảng thông tin blockchain, thông tin được cung cấp trên trang web này không đại diện cho bất kỳ đề xuất đầu tư nào. Các bài báo đăng trên trang này chỉ thể hiện ý kiến cá nhân và không liên quan gì đến vị trí chính thức của TheCoinDesk.