Trong hai tuần gần đây, sức hút của các bộ NFT blue-chip đang quay trở lại, trong đó có Azuki NFT, mang đến nét đặc trưng của văn hóa Nhật Bản. Đất nước nổi tiếng với nền văn hóa đặc sắc, chúng ta cùng tìm hiểu về thị trường NFT tại đây để hiểu hơn những điều mà các nhà sáng tạo muốn thể hiện.
Sự khác biệt giữa NFT Nhật Bản và quốc tế
Gần đây, những bộ sưu tập NFT đến từ Nhật Bản đã bắt đầu thu hút sự chú ý từ nước ngoài. Đặc điểm của hai trường phái này rất khác nhau, vì vậy không dễ để hiểu nguyên nhân dẫn đến sự thịnh vượng của thị trường Nhật Bản từ góc độ nước ngoài.
Với chúng ta, NFT Nhật Bản được hiểu như thế nào?
Người Nhật Bản thích mint và hold các bộ sưu tập giá rẻ. Người dùng chi khoản tiền nhỏ để mint NFT yêu thích, dễ dàng bán trên chợ với giá hợp lý, rủi ro thấp. Đối với chủ dự án thì dễ thúc đẩy cộng đồng và tăng vốn hóa thị trường với số lượng NFT phát hành áp đảo trong mỗi bộ sưu tập. Ví dụ như bộ Live Like A Cat (LLAC) và Aopanda Party (APP) tỷ lệ niêm yết chỉ 0,2% và 0,7% dù cho giá sàn đến 4,2 ETH và 1,46 ETH, nghĩa là có thể do giá mint rẻ không tạo áp lực bán ra để thu hồi vốn.
Việc các nhà đầu tư không bị mất tiền sẽ thu hút họ hơn, thay vì mint xong bán lấy lợi nhuận. Giá trị của NFT còn nằm ở cộng đồng, đặc điểm và số lượng nhiều giúp nhiều người dễ tiếp cận.
Giống như bộ Aston Martin bị ế hàng dù đã giảm phát hành 300 NFT, trong khi các dự án mint giá rẻ hoạt động với số lượng phát hành trên 10.000 NFT do rủi ro thấp hơn.
So sánh với các bộ sưu tập blue-chip
Chúng ta so sánh các bộ NFT Nhật Bản với các bộ sưu tập nước ngoài hàng đầu, tiêu biểu như Bored Ape Yacht Club (BAYC) và Doodles.
Số lượng NFT được phát hành khá giống với số lượng các bộ mint giá rẻ của Nhật bản. Nhưng tỷ lệ niêm yết NFT trên chợ lần lượt là 4% và 5%, có sự khác biệt với bộ LLAC và APP ở trên.
Chỉ số tiếp theo là người dùng độc lập của hai bộ LLAC và APP là 15% – 30%, trong khi bộ BAYC và Doodles là 55% – 61%, cho thấy quy mô cộng đồng các bộ NFT blue-chip quốc tế lớn hơn.
Một đặc điểm dễ nhận thấy khác là văn hóa nắm giữ (hold), sơ đồ sau đây sẽ thể hiện rõ:
Các bộ sưu tập Nhật Bản thường có tính chất chồng chéo, nghĩa là một bộ sưu tập liên quan đến nhiều bộ sưu tập khác. Những bộ WAFUKU GEN, Kamiyo, ShikibuWorld hay Tokyo Alternative Girls (TAG) đều thuộc danh mục này, từ đó tạo nên văn hóa nắm giữ lâu dài.
Làm thế nào để hình thành văn hóa Hold?
Bây giờ chúng ta đã biết những lợi ích, chính xác thì làm cách nào để tạo ra một văn hóa hold? Việc xây dựng các bộ sưu tập với giá mint rẻ là rất quan trọng, nhưng để đạt được tỷ lệ niêm yết NFT trên chợ dưới 1% không phải điều dễ dàng.
Thị trường NFT nước ngoài bị chi phối bởi các nhà giao dịch ngắn hạn, với các hoạt động như mint và bán NFT ngay lập tức. Điều này khó thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp kỹ thuật số.
Các nhà giao dịch ngắn hạn thường quan trọng trong thị trường “bong bóng”, tức là đẩy giá mặt hàng nào đó. Tuy nhiên, khi thị trường giá giảm xuất hiện, không có tính thanh khoản. Và thị trường NFT chỉ phù hợp cho nhà giao dịch ngắn hạn khi phát triển mạnh mẽ, hiện tại vốn hóa vẫn còn quá nhỏ.
Nhiều người ngại hold NFT bởi tính thanh khoản kém, khi giá giảm sẽ khó “về bờ”, nhưng đây lại là cách để thúc đẩy thị trường. Bởi vì khi NFT phổ biến hơn, người mới sẽ tìm đến những bộ NFT có cộng đồng lớn, tồn tại thời gian dài, đương nhiên giá sẽ tăng theo nhu cầu.
Nhiều quỹ đầu tư mạo hiểm (VC) đã mất trắng khi giá tiền điện tử giảm mạnh, sẽ như thế nào nếu họ xem NFT là một kênh đầu tư lâu dài?
NFT Nhật Bản vươn tầm blue-chip trong tương lai?
Chúng ta vừa tìm hiểu lợi ích của mint giá rẻ và hold lâu dài. Liệu một số bộ sưu tập NFT Nhật Bản có thể vươn tầm blue-chip không?
Bản thân NFT chưa thực sự phổ biến ở Nhật Bản, dựa vào điều kiện kinh tế vĩ mô và chính sách ở quốc gia này thì không dễ để NFT bùng nổ. Ngay cả Binance phải mua lại một sàn giao dịch địa phương để hoạt động.
“Cách chơi” NFT Nhật Bản đang phổ biến đến thế giới, mọi người hold Bitcoin trong nhiều năm thì NFT cũng có thể. Vậy nên mình tin rằng sẽ có một vài bộ sưu tập NFT của Nhật Bản sẽ mạnh trong mùa tăng trưởng tiếp theo.